1 Asarjan, Odedin pojan, valtasi Jumalan henki.

3 Israel eli kauan vailla oikeaa Jumalaa, vailla pappien opetusta ja vailla lakia.

4 Mutta ahdistuksessaan se palasi Herran, oman Jumalansa, luo ja etsi häntä, ja niin se löysi hänet.

5 Tuohon aikaan eivät matkamiehet voineet kulkea rauhassa, sillä kaikkialla ihmisten kesken vallitsi epäjärjestys.

6 Kansat hyökkäsivät kansoja vastaan ja kaupungit kaupunkeja vastaan, sillä Jumala oli saattanut ne ahdingon ja sekasorron valtaan.

8 Kun Asa kuuli nämä profeetta Asarjan, Odedin pojan, sanat ja ennustukset, hän sai rohkeuden poistaa iljettävät epäjumalankuvat koko Juudan ja Benjaminin alueelta ja niistä kaupungeista, jotka hän oli valloittanut Efraimin vuoristosta. Hän myös kunnosti Herran alttarin, joka oli temppelin eteishallin edessä.

9 Hän kutsui koolle Juudan ja Benjaminin heimot sekä niiden keskuuteen asettuneet efraimilaiset, manasselaiset ja simeonilaiset. Näitä oli siirtynyt Israelista paljon hänen alueelleen, kun he olivat nähneet, että Herra, hänen Jumalansa, oli hänen kanssaan.

10 Asan viidennentoista hallitusvuoden kolmannessa kuussa he kaikki kokoontuivat Jerusalemiin.

11 Siellä he uhrasivat saaliistaan Herralle seitsemänsataa härkää ja seitsemäntuhatta lammasta.

12 He antoivat lupauksen, että palvelisivat Herraa, isiensä Jumalaa, koko sydämestään ja sielustaan

13 ja että jokaisen, joka ei palvele Herraa, Israelin Jumalaa, olisi kuoltava, olipa hän nuori tai vanha, mies tai nainen.

14 Trumpettien ja torvien soidessa ja riemun raikuessa he vannoivat tämän Herralle.

15 Kaikki Juudan asukkaat iloitsivat valasta. Koska he vannoivat sen vilpittömin mielin ja kääntyivät sydämensä halusta Herran puoleen, Herra kuuli heitä ja antoi heidän elää rauhassa, kenenkään ahdistamatta.

16 Isänsä äidiltä Maakalta kuningas Asa riisti kuningataräidin aseman, koska tämä oli pystyttänyt iljettävän kuvan asera-tarhaan. Asa kaatoi tämän iljetyksen, murskasi sen palasiksi ja poltti sen Kidroninlaaksossa.

17 Uhrikukkuloista ei Israelissa kuitenkaan luovuttu. Mutta Asa itse oli koko elinaikansa täydestä sydämestään Herralle uskollinen.

18 Hän sijoitti Jumalan temppeliin esineet, jotka hän ja hänen isänsä olivat pyhittäneet, hopean, kullan ja kaiken muun.

19 Asan aikana vallitsi rauha hänen kolmanteenkymmenenteenviidenteen hallitusvuoteensa asti.

1 Thần Đức Chúa Trời cảm động A-xa-ria, con trai của Ô-đết: người đi ra đón A-sa, mà nói với người rằng:

2 Hỡi A-sa, cả Giu-đa, và Bên-gia-min, hãy nghe lời ta: Các ngươi theo Đức Giê-hô-va chừng nào, thì Đức Giê-hô-va ở với các ngươi chừng nấy; nếu các ngươi tìm Ngài, ắt sẽ gặp Ngài được; nếu các ngươi lìa bỏ Ngài, thì Ngài sẽ lìa bỏ các ngươi.

3 Đã lâu ngày, Y-sơ-ra-ên không có Chúa thật, không có thầy tế lễ dạy dỗ, cũng chẳng có luật pháp;

4 song trong lúc khốn khó, chúng trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mà tìm cầu Ngài, thì lại gặp Ngài đặng.

5 Trong khi ấy, dân của xứ phải bị sự rối loạn nhiều, kẻ ra kẻ vào không được bằng yên.

6 Nước nầy giày đạp nước kia, thành này giày đạo thành nọ; vì Đức Chúa Trời lấy đủ thứ khổ nạn làm cho chúng rối loạn.

7 Song các ngươi hãy mạnh lòng, tay các ngươi chớ nhát sợ, vì việc các ngươi làm sẽ được phần thưởng.

8 Khi A-sa đã nghe các lời này và lời tiên tri của tiên tri Ô-đết, thì giục lòng mạnh mẽ, bèn trừ bỏ những thần tượng gớm ghiếc khỏi cả đất Giu-đa và Bên-gia-min, cùng khỏi các thành người đã đoạt lấy trên miền núi Ep-ra-im; người tu bổ lại cái bàn thờ của Đức Giê-hô-va ở trước hiên cửa Đức Giê-hô-va.

9 Người nhóm hiệp hết thảy người Giu-đa, người Bên-gia-min, và kẻ khách thuộc về chi phái Ep-ra-im, Ma-na-se, và Si-mê-ôn, vẫn kiều ngụ với chúng; vì có nhiều người Y-sơ-ra-ên khi thấy rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của A-sa ở cùng người, thì đều về đằng người.

10 Tháng ba năm mười lăm đời A-sa, chúng nhóm hiệp tại Giê-ru-sa-lem;

11 nhằm ngày ấy họ lấy trong các súc vật mình đã đoạt được dẫn về bảy trăm con bò đực và bảy ngàn con chiên mà tế lễ Đức Giê-hô-va.

12 Chúng toan ước nhau hết lòng hết ý tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ mình,

13 và hễ ai không tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, thì sẽ bị xử tử vô luận nhỏ hay lớn, nam hay nữ.

14 Chúng cất tiếng lớn mà thề cùng Đức Giê-hô-va, reo mừng, thổi kèn, thổi còi.

15 Cả Giu-đa đều vui mừng về lời thề ấy, vì chúng hết lòng mà phát thề, và hết ý tìm cầu Đức Giê-hô-va; rồi chúng tìm gặp Ngài đặng. Đức Giê-hô-va bèn ban cho chúng được bình an bốn phía.

16 Vả lại, vì Ma -a-ca, mẹ vua A-sa lột chức thái hậu của bà, đánh đổ hình tượng ấy và nghiền nát đi, rồi thiêu đốt trong trũng Xết-rôn.

17 Song các nơi cao không phá dỡ khỏi Y-sơ-ra-ên; dầu vậy, lòng A-sa vẫn trọn lành cả đời người.

18 Người đem vào đền của Đức Giê-hô-va các vật thánh của cha người, và những vật mà chính mình người đã biệt riêng ra thánh, hoặc vàng, hoặc bạc, hay là những khí dụng.

19 Chẳng có giặc giã cho đến năm thứ ba mươi lăm đời A-sa.