1 Kun Esra temppelin edessä polvillaan itkien rukoili ja tunnusti kansan synnit, hänen ympärilleen kokoontui suuri joukko israelilaisia, miehiä, naisia ja lapsia, ja kaikki itkivät ja valittivat.

3 Meidän on nyt juhlallisesti luvattava Jumalamme edessä, että lähetämme pois kaikki nämä naiset ja heidän synnyttämänsä lapset. Tämä on Herran neuvo, ja myös kaikkien niiden, jotka pitävät Jumalamme käskyt kunniassa. Meidän on tehtävä niin kuin laki vaatii.

5 Esra nousi ja vaati pappien ja leeviläisten ja koko Israelin johtomiehiä vannomaan, että he tekisivät niin kuin oli sanottu. He vannoivat.

6 Sitten Esra lähti Jumalan temppelin edestä ja meni Johananin, Eljasibin pojan, kammioon. Hän yöpyi siellä syömättä ja juomatta, surren kotiin palanneiden luopumusta.

7 Kautta Juudan ja Jerusalemin lähetettiin kaikille kotiin palanneille sana, että heidän oli kokoonnuttava Jerusalemiin.

8 Jos joku ei saapuisi kolmen päivän kuluessa, niin kuin johtomiehet ja vanhimmat olivat määränneet, hänen koko omaisuutensa takavarikoitaisiin ja hänet erotettaisiin kotiin palanneiden yhteisöstä.

9 Kolmen päivän kuluttua, yhdeksännen kuun kahdentenakymmenentenä päivänä, kaikki Juudan ja Benjaminin miehet olivat koolla Jerusalemissa. Pelosta vavisten kansa värjötti rankkasateessa aukiolla temppelin edessä.

13 Mutta meitä on paljon, ja koska nyt on sateiden aika, emme voi seistä täällä ulkona. Eikä tätä asiaa saada hoidetuksi päivässä tai parissa, sillä joukossamme on paljon niitä, jotka ovat syyllistyneet tähän rikkomukseen.

15 Ainoastaan Jonatan, Asaelin poika, ja Jahseja, Tikvan poika, vastustivat tätä, ja heitä kannattivat Mesullam ja leeviläinen Sabbetai.

16 Pakkosiirtolaisuudesta palanneet päättivät tehdä niin kuin oli ehdotettu. Pappi Esra valitsi nimeltä mainiten joukon sukujen päämiehiä. He kokoontuivat tutkimaan asiaa kymmenennen kuun ensimmäisenä päivänä,

17 ja ensimmäisen kuun ensimmäiseen päivään mennessä he olivat selvittäneet kaikki tapaukset, joissa miehellä oli muukalainen vaimo.

18 Papeista olivat seuraavat ottaneet vaimokseen muukalaisnaisen: Jesuan, Josadakin pojan, ja hänen veljiensä jälkeläisistä Maaseja, Elieser, Jarib ja Gedalja,

19 jotka juhlallisesti lupasivat lähettää pois vaimonsa ja uhrata rikkomuksensa sovitukseksi pässin,

20 Immerin jälkeläisistä Hanani ja Sebadja,

21 Harimin jälkeläisistä Maaseja, Elia, Semaja, Jehiel ja Ussia,

22 Pashurin jälkeläisistä Eljoenai, Maaseja, Ismael, Netanel, Josabad ja Elasa,

23 leeviläisistä Josabad, Simei, Kelaja eli Kelita, Petahja, Juuda ja Elieser,

24 laulajista Eljasib ja portinvartijoista Sallum, Telem ja Uri.

25 Muista israelilaisista olivat muukalaisnaisen ottaneet vaimokseen: Pareosin jälkeläisistä Ramja, Jissia, Malkia, Mijamin, Eleasar, Malkia ja Benaja,

26 Elamin jälkeläisistä Mattanja, Sakarja, Jehiel, Abdi, Jeremot ja Elia,

27 Sattun jälkeläisistä Eljoenai, Eljasib, Mattanja, Jeremot, Sabad ja Asisa,

28 Bebain jälkeläisistä Johanan, Hananja, Sabbai ja Atlai,

29 Banin jälkeläisistä Mesullam, Malluk, Adaja, Jasub, Seal ja Jeremot,

30 Pahat- Moabin jälkeläisistä Adna, Kelal, Benaja, Maaseja, Mattanja, Besalel, Binnui ja Manasse,

31 Harimin jälkeläisistä Elieser, Jissia, Malkia, Semaja, Simeon,

32 Benjamin, Malluk ja Semarja,

33 Hasumin jälkeläisistä Mattenai, Mattatta, Sabad, Elifelet, Jeremai, Manasse ja Simei,

34 Banin jälkeläisistä Maadai, Amram, Uel,

35 Benaja, Bedja, Keluhu,

36 Vanja, Meremot, Eljasib,

37 Mattanja, Mattenai, Jaasav,

38 Bani, Binnui, Simei,

39 Selemja, Natan, Adaja,

40 Maknadbai, Sasai, Sarai,

41 Asarel, Selemja, Semarja,

42 Sallum, Amarja ja Joosef,

43 Nebon jälkeläisistä Jeiel, Mattitja, Sabad, Sebina, Jaddai, Joel ja Benaja.

44 Kaikki nämä olivat ottaneet vaimokseen muukalaisnaisen, ja he lähettivät heidät pois, sekä vaimot että lapset.

1 Trong lúc E-xơ-ra cầu nguyện như vậy, vừa khóc vừa xưng tội và sấp mình xuống trước đền của Đức Chúa Trời, thì có một đám dân Y-sơ-ra-ên, người nam và nữ rất đông, nhóm hiệp xung quanh người; chúng cũng khóc nứt nở.

2 Sê-ca-nia, con trai Giê-hi-ên, cháu của Ê-lam, bèn nói cùng E-xơ-ra rằng: Chúng ta phạm tội với Đức Chúa Trời chúng ta mà cưới những người nữ ngoại thuộc các dân tộc của xứ; nhưng dầu đã làm vậy, hãy còn hi vọng cho dân Y-sơ-ra-ên.

3 Vậy bây giờ, ta hãy lập giao ước với Đức Chúa Trời chúng ta, đuổi hết thảy những người nữ kia và các con cái của họ đã sanh ra, y như lời chỉ giáo của chúa tôi và của các người có lòng kính sợ điều răn của Đức Chúa Trời chúng ta; khá làm điều ấy theo luật pháp.

4 Ong hãy đứng dậy, vì việc ầy can hệ đến ông, và chúng tôi sẽ giúp đỡ; khá can đảm mà làm.

5 E-xơ-ra bèn đứng dậy, khiến những thầy tế lễ cả, người Lê-vi, và cả Y-sơ-ra-ên thề rằng mình sẽ làm theo lời ấy. Chúng liền thề.

6 Khi E-xơ-ra đã chổi dậy khỏi trước đền Đức Chúa Trời, bèn đi vào phòng của Giô-ha-nan, con trai Ê-li -a-síp; người vào đó không ăn bánh và cũng không uống nước, bởi người lấy làm buồn thảm vì cớ tội lỗi của dân đã bị bắt làm phu tù được trở về.

7 Người ta bèn rao truyền khắp xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, biểu các dân đã bị bắt làm phu tù được trở về nhóm hiệp tại Giê-ru-sa-lem.

8 Trong ba ngày, ai không vâng theo lịnh của các quan trưởng và trưởng lão mà đến, thì các tài sản người ấy sẽ bị tịch-phong, và chính người bị truất khỏi hội chúng của dân đã bị bắt làm phu tù được trở về.

9 Trong ba ngày, các người của Giu-đa và Bên-gia-min đều nhóm lại tại Giê-ru-sa-lem, nhằm ngày hai mươi tháng chín; cả dân sự đều ngồi tại phố ở đằng trước đền của Đức Chúa Trời, rúng sợ về việc ấy và về cơn mưa lớn.

10 Đoạn, E-xơ-ra, thầy tế lễ, đứng dậy, và nói rằng: Các ngươi đã phạm tội, cưới vợ ngoại bang, và thêm nhiều lên tội lỗi của Y-sơ-ra-ên.

11 Nhưng bây giờ, khá xưng tội lỗi mình cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi, và làm đều đẹp ý Ngài: hãy phân cách khỏi các dân tộc của xứ và khỏi những người vợ ngoại bang.

12 Cả hội chúng bèn đáp lớn tiếng rằng: Phải, điều ông đã nói, chúng tôi phải làm theo;

13 song dân sự đông; và là nhầm mùa mưa, chúng tôi không có thể nào đứng ngoài; lại điều nầy chẳng phải là việc của một hoặc hai ngày, vì trong việc nầy chúng tôi đã phạm tội nhiều lắm.

14 Vậy, xin các quan trưởng chúng tôi hãy đứng ở đó đặng biện lý cho cả hội chúng; phàm ai trong các thành chúng tôi đã cưới lấy vợ ngoại bang, phải đến theo kỳ nhứt định, với các trưởng lão và quan xét của bổn thành, đặng sắp đặt việc này cho đến chừng đã nguôi cơn giận dữ của Đức Chúa Trời chúng tôi.

15 Chỉ Giô-na-than, con trai của A-sa-ên, và Gia-xi-gia, con trai Tiếc-va, phản cải lời định nầy; và Mê-su-lam cùng Sáp-bê-tai, người Lê-vi, đều giúp cho họ.

16 Vậy, những người đã bị bắt làm phu tù được trở về làm theo điều đã nhứ-định. Người ta chọn E-xơ-ra, thầy tế lễ, và mấy trưởng tộc, tùy theo tông tộc mình, hết thảy đều gọi đích danh. Ngày mồng một tháng mười, chúng ngồi đặng tra xét việc nầy.

17 Đến ngày mồng một tháng giêng, chúng đã tra xét xong những người có vợ ngoại bang.

18 Trong dòng thầy tế lễ cũng có thấy những người đã cưới vợ ngoại bang. Trong con cháu Giê-sua, chít của Giô-xa-đác, và trong vòng các anh em người có Ma -a-xê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-lia.

19 Chúng hứa đuổi vợ mình, và dâng một con chiên đực làm của lễ chuộc lỗi mình.

20 Trong con cháu Y-mê có Ha-na-ni và Xê-ba-bia.

21 Trong con cháu Ha-rim có Ma -a-xê-gia, Ê-li, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xia.

22 Trong con cháu Pha-su-rơ có Ê-li-ô-ê-nai, Ma -a-xê-gia, Ích-ma-ên, Na-tha-na-ên, Giô-xa-bát, và Ê-lê -a-sa.

23 Trong người Lê-vi có Giô-xa-bát, Si-mê -i, Kê-la-gia (cũng gọi là Kê-li-ta), Phê-ta-hia, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.

24 Trong các người ca hát có Ê-li -a-síp; trong những người giữ cửa có Sa-lum, Tê-lem, và U-ri.

25 Trong dân Y-sơ-ra-ên: trong con cháu Pha-rốt có Ra-mia, Y-xia, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê -a-sa, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê -a-sa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia.

26 Trong con cháu Ê-lam có Mát-ta-nia, Xa-cha-ri, Giê-hi-ên, Ap-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li.

27 Trong con cháu Xát-tu có Ê-li -a-síp, Mát-ta-nia, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa.

28 Trong con cháu Bê-bai có Giô-ha-nan, Ha-na-nia, Xáp-bai, và At-lai.

29 Trong con cháu Ba-ni có Mê-su-lam, Ma-lúc, A-đa-gia, Gia-sút, Sê-anh, và Ra-mốt.

30 Trong con cháu Pha-hát-Mô-áp có At-na, Kê-lanh, Bê-na-gia, Ma -a-xê-gia, Mát-ta-nia, Bết-sa-lê-ên, Bin-nui, và Ma-na-se.

31 Trong con cháu Ha-rim có Ê-li-ê-se, Di-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn,

32 Bên-gia-min, Ma-lúc, và Sê-ma-ri -a.

33 Trong con cháu Ha-sum có Mát-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê -i.

34 Trong con cháu Ba-ni có Ma-ê-đai, Am-ram, U-ên,

35 Bên-na-gia, Bê-đia, Kê-lu-hu,

36 Va-nia, Mê-rê-mốt, Ê-li -a-síp,

37 Mát-ta-nia, Mát-tê-nai, Gia -a-sai,

38 Ba-ni, Bin-nui, Si-mê -i,

39 Sê-lê-mia, Na-than, A-đa-gia,

40 Mác-nát-bai, Sa-rai, Sa-rai,

41 A-xa-rên, Sê-lê-mia, Sê-ma-ria,

42 Sa-lum, A-ma-ria, và Giô-sép.

43 Trong con cháu Nê-bô có Giê -i-ên, Ma-ti-thia, Xa-bát, Xê-bi-na, Giát-đai, Giô-ên và Bê-na-gia.

44 Hết thảy người ấy đã cưới vợ ngoại bang; và cũng có nhiều người trong bọn ấy có vợ đã sanh đẻ con.