2 Mooses kutsui luokseen Besalelin, Oholiabin ja kaikki käsityöläiset, joille Herra oli antanut taitoa, jokaisen, joka oli halukas tekemään tätä työtä.

3 He saivat Moosekselta työtään varten kaikki uhrilahjat, jotka israelilaiset olivat tuoneet pyhäkön ja sen varusteiden tarveaineiksi. Mutta israelilaiset toivat joka aamu lisää vapaaehtoisia lahjoja.

4 Silloin käsityöläiset, jotka olivat tekemässä eri töitä pyhäkköä varten, tulivat toinen toisensa perään

7 sillä tarvikkeita oli jo kylliksi kaikkien töiden tekemistä varten, jopa ylikin.

8 Sitten taitavimmat käsityöläiset tekivät telttamajan kymmenestä kangaskaistasta. Ne oli kudottu kerratusta pellavalangasta sekä sinipunaisesta, purppuraisesta ja karmiininpunaisesta villasta, ja niihin oli tehty taidokkaita kerubinkuvia.

9 Kunkin kaistan pituus oli kaksikymmentäkahdeksan kyynärää ja leveys neljä kyynärää; kaikki kaistat olivat samankokoisia.

10 He yhdistivät viisi kaistaa toisiinsa, samoin toiset viisi,

11 ja tekivät sinipunaisesta villalangasta silmukoita näiden molempien yhdistettyjen kankaiden niihin reunoihin, jotka tulivat keskenään vastakkain.

12 Kummankin kankaan reunaan he tekivät viisikymmentä silmukkaa, niin että ne osuivat kohdakkain.

13 He tekivät viisikymmentä kultahakasta ja liittivät niillä kankaat silmukoistaan toisiinsa, niin että ne muodostivat yhtenäisen telttakankaan.

14 Sitten he tekivät vuohenkarvoista kangaskaistoja levitettäviksi telttamajan päälle; niitä he tekivät yksitoista.

15 Kunkin kaistan pituus oli kolmekymmentä kyynärää ja leveys neljä kyynärää, ja kaikki yksitoista kaistaa olivat samankokoisia.

16 Viisi kaistaa he liittivät yhdeksi kappaleeksi, samoin loput kuusi.

17 Kummankin kaistoista kootun kankaan reunaan he tekivät viisikymmentä silmukkaa.

18 He tekivät vielä viisikymmentä pronssihakasta, joilla kankaat liitettiin silmukoistaan yhtenäiseksi teltaksi.

19 Telttamajaa varten he tekivät peitteen punaiseksi värjätyistä pässinnahoista ja sen päälle vielä merilehmännahkaisen peitteen.

20 He tekivät akasiapuusta telttamajan seinälaudat, jotka tuli asettaa pystyyn.

21 Jokainen lauta oli kymmenen kyynärää pitkä ja puolitoista kyynärää leveä.

22 Kussakin laudassa oli kaksi tappia, jotka sopivat niitä vastaaviin reikiin. Tällaisiksi he tekivät telttamajan kaikki laudat.

23 Telttamajan eteläsivua varten he tekivät kaksikymmentä lautaa

24 ja näiden kahdenkymmenen laudan alle neljäkymmentä hopeajalustaa, kunkin laudan alle aina kaksi jalustaa, joihin tapit sopivat.

25 Telttamajan toista, pohjoisen puoleista sivuseinää varten he tekivät toiset kaksikymmentä lautaa

26 sekä neljäkymmentä hopeajalustaa, kaksi jalustaa aina kunkin laudan alle.

27 Telttamajan peräpäätyyn, lännen puolelle, he tekivät kuusi lautaa

28 ja lisäksi kaksi lautaa kulmalaudoiksi telttamajan peränurkkiin.

29 Nämä laudat olivat alhaalta kaksiosaiset, samoin ylhäältä, yhteen liitetyt ensimmäiseen renkaaseen saakka. Tällaisia olivat molemmat kulmalaudat.

30 Seinälautoja oli siis kahdeksan ja niillä kuusitoista hopeajalustaa, kaksi jalustaa aina kunkin laudan alla.

31 Poikkipuut he tekivät akasiapuusta, viisi poikkipuuta telttamajan kummankin sivuseinän lautoja varten,

32 samoin viisi lännen puoleisen peräpäädyn lautoja varten.

33 Keskimmäinen poikkipuu oli lautojen keskikohdalla, ja se sitoi laudat seinän koko pituudelta.

34 He päällystivät laudat kullalla, tekivät niihin kullasta renkaat pitämään poikkipuita paikoillaan ja päällystivät kullalla myös poikkipuut.

35 He tekivät väliverhon sinipunaisesta, purppuraisesta ja karmiininpunaisesta villasta sekä hienosta kerratusta pellavalangasta ja kutoivat siihen taidokkaita kerubinkuvia.

36 Väliverhon kiinnittämistä varten he tekivät neljä akasiapuista pylvästä ja päällystivät ne kullalla. Myös pylväiden koukut olivat kultaa. Näitä pylväitä varten he valoivat neljä hopeajalustaa.

37 Telttamajan oviverhon he tekivät korukudontatyönä sinipunaisesta, purppuraisesta ja karmiininpunaisesta villasta sekä hienosta kerratusta pellavalangasta.

38 Verhoa varten he tekivät viisi pylvästä ja niihin koukut. He päällystivät pylväiden päät ja poikkitangot kullalla ja tekivät pylväitä varten viisi pronssijalustaa.

1 Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp và các người khôn khéo, tức là người Đức Giê-hô-va đã phú cho sự khôn ngoan và sự thông sáng đặng làm các công việc định dùng về việc tế lễ nơi thánh, đều làm mọi việc mà Đức Giê-hô-va đã phán dặn.

2 Vậy, Môi-se bèn gọi Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp, và các người khôn khéo mà trong lòng họ Đức Giê-hô-va phú sự thông sáng cùng các người có lòng cảm động xui mình đến gần, đặng làm công việc.

3 Trước mặt Môi-se, họ thâu các lễ vật của dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến, để làm các công việc định dùng và sự tế lễ nơi thánh. Nhưng mỗi buổi sớm mai, dân sự lại đem đến lễ vật tình nguyện nữa.

4 Thế thì, các người khôn khéo làm mọi công việc của nơi thánh, đều tạm đình,

5 đến nỗi cùng Môi-se rằng: Dân sự đem đến dư bội phần đặng làm các công việc mà Đức Giê-hô-va đã phán dặn.

6 Theo lịnh truyền của Môi-se, họ bèn đi rao từ trại quân rằng: Bất kỳ người nam hay nữ, chớ làm công việc về lễ vật của nơi thánh nữa! Vậy họ cấm dân sự không cho đem đến chi thêm nữa hết.

7 Vì đã đủ các vật liệu đặng làm hết thảy công việc, cho đến đỗi còn dư lại nữa.

8 Các người khôn khéo trong vòng những người làm công việc, dùng mười bức màn bằng vải gai đậu mịn, chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, thêu hình chê-ru-bin cực xảo, mà dựng đền tạm.

9 Mỗi bức màn đều dài hai mươi tám thước, rộng bốn thước; các bức đều đồng cỡ nhau.

10 Họ kết mỗi năm bức màn dính lại nhau;

11 thắt vòng bằng chỉ tím nơi triêng của bức màn thứ nhất, ở đầu bức nguyên; và cũng làm như vậy cho triêng của bức màn ở nơi chót trong bức nguyên thứ nhì.

12 Họ thắt năm chục vòng theo triêng của bức màn ở đầu của bức nguyên thứ nhất, và năm chục vòng theo triêng bức màn ở chót của bức nguyên thứ nhì; các vòng đối nhau.

13 Đoạn chế năm chục cái móc bằng vàng, móc bức nầy với bức kia, để cho đền tạm kết lại thành một.

14 Kế đó, họ dùng lông dê kết mười một bức màn, để làm bong trên đền tạm.

15 Bề dài mỗi bức màn ba mươi thước, bề rộng bốn thước: mười một bức màn đều đồng cỡ nhau.

16 Họ kết năm bức màn riêng ra; và sáu bức màn khác riêng ra;

17 thắt năm chục cái vòng nơi triêng bức chót của bức nguyên thứ nhất, và năm chục vòng nơi triêng bức ở đầu của bức nguyên thứ nhì;

18 làm năm chục cái móc bằng đồng, móc bức bong hiệp lại thành một.

19 Họ cũng làm cho đền tạm một tấm lá phủ bằng da chiên đực nhuộm đỏ, và một tấm là phủ bằng da cá nược đắp lên trên.

20 Họ dùng ván bằng cây si-tim làm vách cho đền tạm.

21 Mỗi tấm ván mười thước về dài, một thước rưỡi bề ngang.

22 Mỗi tấm có hai cái mộng liên nhau: cả ván đền tạm đều làm một cách.

23 Vậy, họ làm ván cho đền tạm: hai chục tấm về phía nam;

24 dưới hai chục tấm làm bốn chục lỗ mộng bằng bạc: dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng, để chịu hai cái mộng.

25 Họ cũng làm hai chục tấm ván ở phía bắc đền tạm,

26 và bốn chục lỗ mộng bằng bạc; dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng.

27 Về phía đằng sau của đền tạm, tức là phía tây, họ làm sáu tấm ván,

28 và về hai góc sau thì làm hai tấm ván.

29 Hai tấm ván góc ra khít với nhau từ dưới chí trên bởi một cái khoen ở nơi đầu; hai góc hai bên đều làm như vậy.

30 Thế thì, có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm có hai lỗ mộng.

31 Họ làm năm cây xà ngang bằng gỗ si-tim cặp mấy tấm ván về phía bên nầy của đền tạm,

32 năm cây xà ngang khác về phía bên kia, và năm cây xà ngang khác nữa về phía sau đền tạm, tức là phía tây.

33 Họ làm cây xà ngang giữa, đặng lòn qua thân giữa các tấm ván từ đầu nầy đến đầu kia,

34 và bọc vàng mấy tấm ván. Họ làm các khoen của ván bằng vàng, đặng xỏ xà ngang qua, và bọc vàng các cây xà ngang.

35 Họ lại chế một bức màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn, thêu hình chê-ru-bin cực xảo,

36 rồi làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim, bọc vàng, cùng đinh bằng vàng; đúc bốn lỗ trụ bằng bạc cho mấy cây trụ đó.

37 Họ cũng chế cho cửa vào Trại một tấm màn bằng chỉ tím, đỏ điều, đỏ sặm, và vải gai đậu mịn: ấy là một công việc thêu thùa.

38 Họ cũng làm năm cây trụ cùng đinh, rồi bọc vàng trên đầu trụ, và các cây nuông; còn năm lỗ trụ thì bằng đồng.