1 Minulle tuli tämä Herran sana:

4 Olet keskellä merta, ja rakentajasi tekivät sinusta ihmeen kauniin.

5 Senirin sypressistä rakennettiin molemmat kylkesi, Libanonin vuorilta kaadettiin setri sinulle mastoksi.

6 Basanin tammista veistettiin sinulle airot. Kansilaudoiksesi tuotiin sypressipuuta kittiläisten saarelta.

7 Värikästä Egyptin pellavaa olivat purjeesi, tunnusmerkkisi. Sinistä ja punaista Kyproksen purppuraa olivat aurinkokatoksesi.

8 Sidonin ja Arvadin miehet olivat airoissasi, ja omat viisaasi, Tyros, otit pitämään perää.

9 Bybloksen vanhimmat ja viisaat tilkitsivät vuotokohdat. Meren kaikki laivat ja laivurit tulivat luoksesi kaupantekoon.

10 Armeijassasi olivat Persian, Ludin ja Putin miehet. He ripustivat kilpensä ja kypäränsä koristamaan kylkiäsi.

13 Samoin ostivat Javan, Tubal ja Mesek sinulta tuotteitasi ja antoivat maksuksi orjia ja kupariesineitä.

14 Bet-Togarman kauppiailta sait vaihtokaupassa vaunuhevosia, ratsuja ja muuleja.

15 Myös Dedanin kanssa kävit kauppaa, ja monet saaret olivat kauppasuhteissa kanssasi ja antoivat maksuksi norsunluuta ja eebenpuuta.

16 Kauppakumppaninasi oli myös Edom -- olihan sinulla, mitä myydä. Se toimitti sinulle vastineeksi granaattikiveä, purppuraa, kirjailtuja kankaita ja hienointa pellavaa sekä koralleja ja rubiineja.

18 Samoin ylläpiti Damaskos suhteita sinuun, koska olit vauras ja sinulla oli paljon kaupattavaa, ja se toimitti sinulle Helbonin viiniä ja Saharin villaa.

19 Dan ja Ussalin Javan antoivat tavaroistasi maksuksi taottua rautaa, kanelia ja mausteruokoa,

20 ja Dedan välitti sinulle satulaloimia.

21 Myös Arabia ja kaikki Kedarin ruhtinaat kävivät kauppaa kanssasi ja toimittivat sinulle karitsoita, pässejä ja pukkeja.

22 Samoin olivat Saban ja Raeman kauppiaat sinuun yhteydessä ja vaihtoivat tavarasi parhaaseen balsamiin sekä monenlaisiin kalliisiin kiviin ja kultaan.

23 Haran, Kanne, Eden, Assyria ja Kilmad kävivät nekin kanssasi kauppaa

24 ja toivat markkinoillesi upeita vaatteita, purppuraviittoja, kirjailtuja kankaita, värikkäitä, raidallisia peitteitä ja vahvoja punosköysiä.

25 Sinun tavaroitasi kuljettivat Tarsisin-laivat. -- Täpötäynnä, raskaassa lastissa lähdit keskelle merta.

26 Aavoille merenselille sinut soudettiin, mutta itämyrsky pirstoi sinut keskellä merta.

28 -- Laivamiehesi huutavat ja valittavat, niin että rannat järkkyvät

29 ja kaikkialla soutajat lähtevät laivasta, kaikki laivurit ja merimiehet nousevat maihin

30 ja huutavat suureen ääneen sinun tähtesi. He itkevät katkerasti, ripottavat hiekkaa hiuksiinsa ja kieriskelevät tuhkassa.

31 He leikkaavat sinun vuoksesi päänsä paljaaksi ja pukeutuvat karkeaan kankaaseen, he itkevät sinua katkerasti, valittaen ja voihkien.

32 Surussaan he virittävät valitusvirren, laulavat sinusta kuolinlaulun: -- Kuka veti vertoja Tyrokselle, merimahdille?

33 Sinun tavarasi saapuivat merten takaa, sinä ravitsit monia kansoja. Runsailla, arvokkailla tuotteillasi sinä vaurastutit maan kuninkaat.

34 Nyt olet hylky, et purjehdi vaan lepäät syvyydessä. Kaikki tavarasi, kaikki joukkosi veit mukanasi mereen.

35 Kaikki merenrantojen asukkaat kauhistuvat kohtaloasi, heidän kuninkaansa typertyneinä tuijottavat, vapisevat pelosta.

1 Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng ta rằng:

2 Hỡi con người, hãy làm một bài ca thương về thành Ty-rơ.

3 Hãy nói cùng thành Ty-rơ rằng: Hỡi mầy là thành nơi cửa biển, buôn bán với các dân của nhiều cù lao, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Hỡi Ty-rơ, mầy có nói: Ta là sự tốt đẹp trọn vẹn.

4 Bờ cõi mầy ở trong lòng biển; những kẻ xây dựng mầy đã làm cho mầy nên một thành tốt đẹp trọn vẹn.

5 Họ đã ghép ván của mầy bằng cây tùng của Sê-nia; lấy cây bách của Li-ban đặng làm cột buồm cho mầy;

6 làm chèo của mầy bằng cây dẽ của Ba-san; lấy cây hoàng dương của đảo Kít-tim làm ván lợp, và cẩn bằng ngà voi.

7 Vải gai mịn có thêu của Ê-díp-tô dùng mà buồm, để làm cờ xí cho mầy; vải sắc tía sắc xanh của các cù lao Ê-li-sa dùng làm màn cháng.

8 Dân cư Si-đôn và A-vát là bạn chèo của mầy; hỡi Ty-rơ, những người khôn ngoan trong mầy làm kẻ cầm lái của mầy.

9 Các trưởng lão ở Ghê-banh và người thông thái xứ ấy, thì mầy dùng để tu bổ chỗ hư hỏng của tàu mầy. Hết thảy những tàu biển cùng thủy thủ nó đều ở trong mầy, đặng đổi lấy hàng hóa của mầy.

10 Người Phe-rơ-sơ, người Lút, người Phút, làm lính chiến trong đạo binh mầy. Chúng nó treo thuẫn và mão trụ trong mầy, và làm nên sự đẹp đẽ của mầy.

11 Những người A-vát cùng quân lính riêng của mầy đầy vách thành mầy, những người mạnh mẽ thì ở trên các tháp; chúng nó treo thuẫn chung quanh vách thành mầy, và làm sự đẹp đẽ trọn vẹn của mầy.

12 Những dân ở thành Ta-rê-si buôn bán với mầy đủ mọi thứ của cải, lấy bạc, sắt, thiếc, chì mà đổi đồ hàng hóa của mầy.

13 Các dân ở Gia-van, ở Tu-banh và ở Mê-siếc buôn bán với mầy, đổi lấy hàng hóa mầy thì cho mầy những tôi mọi và đồ bằng đồng.

14 Những người của nhà Tô-ga-ma đem ngựa, ngựa chiến, la, mà đổi lấy đồ hàng của mầy.

15 Những người Đê-đan là bạn hàng mầy; sự buôn bán của nhiều cù lao ở trong tay mầy, đem cho mầy những ngà voi, gỗ mun, mà đổi lấy hàng hóa.

16 Vì tay mầy chế tạo rất nhiều, nên Sy-ri buôn bán với mầy, và lấy bích ngọc, vải điều, đồ thêu, vải gai mịn, san hô, hồng ngọc mà đổi hàng của mầy.

17 Giu-đa và đất Y-sơ-ra-ên cũng buôn bán với mầy, thì đem cho mầy những lúa mì ở Min-nít, bánh ngọt, mật ong, dầu, va nhũ hương.

18 Bởi tay mầy chế ra nhiều đồ, của cải đầy dẫy, nên Đa-mách lấy rượu nho ở Hên bôn và lông chiên trắng của nó mà đổi chác cùng mầy.

19 Vê-đan và Gia-van đem chỉ đổi lấy hàng hóa mầy; trong hàng hóa đó có sắt sáng, nhục quế, và xương bồ.

20 Những người ở Đê-đan buôn với mầy bằng thứ vải hoa để phủ trên ngựa.

21 Người A-rạp vào mọi quan trưởng ở Kê-đa buôn bán với mầy, và đem đến cho mầy những chiên con, chiên đực, và dê đực.

22 Những con buôn ở Sê-ba và Ra -a-ma buôn bán với mầy, lấy mọi thứ hương tốt nhứt, mọi thứ đá quí và vàng mà đổi lấy hàng hóa mầy.

23 Ha-ran, Can nê, và Ê-đen, những con buôn ở Sê-ba, A-si-ri và Kin-mát đều là bạn hàng của mầy;

24 chúng nó buôn bán với mầy những làng trọng thể: áo màu tía và thêu, vải quí báu xếp trong hòm, dây bện, ván bằng gỗ hương bách.

25 Các thuyền Ta-rê-si vì sự buôn mầy mà chở chạy, và mầy được đầy dẫy cùng được vinh hiển cả thể trong lòng biển.

26 Nhưng mà những tay chèo của mầy đã dẫn mầy trên nước lớn, và gió đông đã đập nát mầy trong lòng biển.

27 Đến ngày hủy phá của mầy, thì của cải, hàng hóa, việc buôn bán của mầy, thủy thủ và kẻ coi hoa tiêu của mầy, những kẻ tu bổ chỗ hư hỏng của tàu bè mầy, những kẻ buôn bán hàng hóa với mầy, hết thảy lính chiến của mầy ở trong mầy, cả đoàn dân đông đầy giữa mầy, đều sẽ ngã xuống trong lòng biển.

28 Bởi tiếng kêu của những kẻ coi hoa tiêu, các xóm chung quanh mầy đều run rẩy;

29 hết thảy những kẻ cầm chèo, hết thảy những thủy thủ, hết thảy những kẻ coi hoa tiêu ngoài biển đều xuống hỏi tàu mình và đứng vững trên đất.

30 Chúng nó sẽ làm vang tiếng than khóc mầy, và trổi tiếng kêu la cay đắng vì mầy; chúng nó ném bụi trên đầu mình, và lăn lóc trong tro.

31 Chúng nó sẽ cạo đầu vì chớ mầy, và thắt lưng bằng bao gai, trong lòng đau đớn, vì mầy khóc lóc cay đắng.

32 Nhơn lòng chúng nó đau thương, thì làm một bài ca thương về mầy, và than rằng: Ai sánh với thành Ty-rơ, là thành bây giờ đã vắng lặng giữa biển?

33 Thuở hàng hóa mầy ra khỏi các biển, mầy làm cho no đủ nhiều dân. Bởi sự giàu có và sự buôn bán của mầy thạnh vượng lên, thì làm giàu cho các vua trên đất.

34 Bây giờ, kìa mầy đã tan nát vì các biển, chìm dưới nước sâu; sự buôn bán và dân chúng của mầy đều cùng mầy chìm đắm.

35 Hết thảy những dân ở các cù lao đều vì cớ mầy mà sững sờ, các vua chúng nó đều khiếp sợ, sắc mặt lo buồn.

36 Những con buôn lập nghiệp trong các dân xỉ báng mầy. Mầy đã trở nên cớ kinh khiếp, đời đời mầy sẽ không còn nữa!