2 Päivästä päivään minä ojensin käteni tätä vastahakoista kansaa kohden, kansaa, joka kulkee väärää tietä oman mielensä mukaan,
3 kansaa, joka yhä uudelleen minut vihoittaa, joka alati minun silmieni edessä uhraa puutarhoissa ja polttaa suitsukkeita tiilialttareilla.
4 He oleskelevat haudoissa ja yöpyvät kallionkoloissa, heille kelpaa ruoaksi sian liha, kelvotonta uhrilihaa he keittävät astioissaan.
6 Minun edessäni on kirjoitus: En minä vaikene! Kaiken minä olen maksanut, ja minä maksan suoraan käteen.
7 Minä maksan heidän rikkomuksensa ja heidän isiensä rikkomukset samalla kertaa, sanoo Herra. Koska he ovat polttaneet suitsutusta vuorilla ja herjanneet minua kukkuloilla, minä aivan heti luen heille palkan suoraan käteen.
9 Jaakobin siemenestä minä kasvatan jälkeläisiä, Juudan jälkeläisistä minä teen vuorteni perijän. Minun valittuni ne perivät, minun palvelijani asuvat siellä.
10 Saaronista tulee lampaiden ja vuohien laidun, Akorinlaaksosta nautakarjan lepäilypaikka. Nekin ovat kansani maata, kansan, joka minua etsii.
11 Mutta te, jotka olette hylänneet Herran ja unohtaneet minun pyhän vuoreni, te, jotka katoitte juhlapöydän onnenjumalalle Gadille ja täytitte sekoitusmaljan kohtalonjumalan Menin kunniaksi,
12 te menetätte henkenne miekan iskusta, minä määrään teidät kumartumaan teuraiksi. Kun minä kutsuin, te ette vastanneet, kun minä puhuin, te ette kuunnelleet vaan teitte sitä, mikä on minun silmissäni väärää, ja aina valitsitte sen, mikä on vastoin minun tahtoani.
13 Sen tähden Herra, minun Jumalani, sanoo näin: -- Minun palvelijani saavat syödäkseen, mutta te näette nälkää, minun palvelijani saavat juodakseen, mutta te kärsitte janoa, minun palvelijani iloitsevat, mutta teidän osanne on häpeä,
14 minun palvelijani riemuitsevat sydän täynnä onnea, mutta te huudatte sydän tuskaa tulvillaan ja valitatte mieli murtuneena.
16 Joka pyytää itselleen siunausta tässä maassa, on saava siunauksen oikean Jumalan nimessä, ja joka vannoo tässä maassa, on vannova oikean Jumalan nimeen. Ja kaikki menneet murheet on unohdettu, niitä ei enää missään näy.
17 Katso, minä luon uuden taivaan ja uuden maan. Menneitä ei enää muistella, ne eivät nouse mieleen.
18 Ei, vaan te saatte iloita ja riemuita aina ja ikuisesti siitä, mitä minä luon. Katso, ilon kaupungiksi minä luon Jerusalemin, teen riemuitsevaksi sen kansan.
19 Ja minä riemuitsen Jerusalemista, iloitsen kansastani. Ei siellä enää kuulu itkun ääntä, ei valitusta,
20 eivät vastasyntyneet siellä enää kuole, ei yksikään, ei kuole vanhus, ennen kuin on elänyt päivänsä täyteen. Joka kuolee satavuotiaana, kuolee nuorena, jonka vuodet jäävät alle sadan, häntä surkutellaan.
21 He rakentavat taloja ja saavat asua niissä, he istuttavat viinitarhoja ja nauttivat itse niiden hedelmän,
22 ei niin, että he rakentaisivat ja toinen taloa asuisi, eikä niin, että he istuttaisivat ja toinen söisi hedelmän. Niin kuin puiden päivät, niin ovat minun omieni päivät. Minun valittuni saavat itse nauttia työnsä tuloksista.
23 Enää he eivät näe vaivaa tyhjän vuoksi, eivät synny kuollakseen kohta, vaan he ovat Herran siunaama suku ja heidän vesansa pysyy heidän luonaan.
24 Jo ennen kuin he kutsuvat, minä vastaan, kun he vielä esittävät pyyntöään, minä jo toteutan sen.
25 Susi ja karitsa käyvät yhdessä laitumella, leijona syö heinää kuin härkä, ja käärmeen ruokana on maan tomu. Kukaan ei tee pahaa, kukaan ei vahingoita ketään minun pyhällä vuorellani, sanoo Herra.
1 Những kẻ vốn chẳng cầu hỏi ta thì đã hỏi thăm ta; những kẻ vốn chẳng tìm ta thì đã gặp được ta. Ta đã phán cùng một dân chưa kêu cầu danh ta, mà rằng: Ta đây, ta đây!
2 Ta đã giang tay ra trọn ngày hướng về một dân bội nghịch, là những kẻ đi trong đường không tốt, theo ý riêng mình,
3 là một dân kia hằng chọc giận ta trước mặt ta, tế trong vườn, đốt hương trên đống gạch,
4 ngồi trong mồ mả, trọ trong nơi kín, ăn thịt heo, đựng nước của vật gớm ghiếc trong khí mạnh nó,
5 và dám nói rằng: Hãy đứng riêng ra, đừng lại gần ta, vì ta thánh sạch hơn ngươi! Bọn đó là khói nơi lỗ mũi ta, như lửa cháy cả ngày.
6 Nầy, đã ghi chép trước mặt ta rằng ta sẽ không làm thinh đâu, song ta sẽ báo trả, thật ta sẽ báo trả vào ngực nó,
7 tức là tội ác các ngươi, luôn với tội ác tổ phụ các ngươi, là những kẻ đã đốt hương trên các núi, và nói phạm đến ta trên các gò: nên ta sẽ đo lường việc trước chúng nó vào ngực chúng nó. Đức Giê-hô-va phán vậy.
8 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Khi người ta thấy rượu mới trong chùm nho, thì rằng: Đừng làm hư đi, vì trong trái đó có phước lành; ta cũng sẽ làm như vậy vì cớ các tôi tớ ta, hầu cho ta không hủy diệt cả.
9 Ta sẽ khiến một dòng dõi ra từ Gia-cốp, và một kẻ kế tự các núi ta ra từ Giu-đa; những kẻ lựa chọn của ta sẽ được xứ nầy làm kỷ vật, tôi tớ ta sẽ ở đó.
10 Trong dân ta, những kẻ nào đã tìm kiếm ta, sẽ được đồng Sa-rôn dùng làm chỗ chăn chiên, nơi trũng A-cô dùng làm đồng cỏ thả bò.
11 Còn như các ngươi, là kẻ đã bỏ Đức Giê-hô-va, đã quên núi thánh ta, đã đặt một bàn cho Gát, và rót chén đầy kính Mê-ni,
12 nên ta định cho các ngươi phải gươm dao, các ngươi thảy đều cúi xuống và bị giết; vì ta đã kêu, các ngươi không đáp lại; ta đã nói, các ngươi không lắng nghe, nhưng các ngươi đã làm điều ta ghét, và đã chọn điều ta chẳng đẹp lòng.
13 Vậy nên Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Nầy, các tôi tớ ta sẽ ăn, còn các ngươi thì đói; nầy, tôi tớ ta sẽ uống, còn các ngươi thì khát; nầy, tôi tớ ta sẽ được vui vẻ, còn các ngươi thì bị nhuốc nha;
14 nầy, tôi tớ ta sẽ hát mừng vì lòng đầy vui vẻ, còn các ngươi thì khóc lóc vì lòng buồn bực, kêu than vì tâm thần phiền não.
15 Danh các ngươi sẽ còn lại làm tiếng rủa sả cho những kẻ lựa chọn của ta; Chúa Giê-hô-va sẽ giết ngươi; những Ngài sẽ lấy danh khác đặt cho các tôi tớ mình.
16 Vì vậy, phàm ai ở trên đất chúc phước cho mình thì sẽ cầu phước lành nơi danh Đức Chúa Trời chơn thật; còn ai ở trên đất mà thề nguyền, thì sẽ chỉ Đức Chúa Trời chơn thật mà thề nguyền; vì những sự khốn nạn trước đã quên hết, và đã khuất khỏi mặt ta.
17 Ta sẽ dựng trời mới đất mới; những việc trước sẽ chẳng nhớ nữa, chẳng còn nhắc đến nữa.
18 Thà các ngươi hãy mừng rỡ và vui vẻ đời đời trong sự ta dựng nên. Thật, ta dựng nên Giê-ru-sa-lem cho sự vui, và dân nó cho sự mừng rỡ.
19 Ta sẽ vui vì Giê-ru-sa-lem, ta sẽ mừng vì dân ta; tại đó sẽ chẳng còn nghe tiếng khóc lóc kêu la nữa.
20 Tại đó sẽ không có trẻ con chết non, cũng chẳng có ông già nào chẳng trọn đời mình; vì chết lúc trăm tuổi, còn là chết trẻ, và kẻ có tội lúc trăm tuổi, ấy là bị rủa sả.
21 Dân ta sẽ xây nhà và ở, trồng vườn nho và ăn trái.
22 Họ chẳng xây nhà cho người khác ở, chẳng trồng vườn nho cho người khác ăn; vì tuổi dân ta sẽ như tuổi cây, những kẻ lựa chọn của ta sẽ hằng hưởng công việc tay mình làm.
23 Họ sẽ không nhọc mình vô ích nữa, không kẻ con ra để gặp sự họa, vì họ là dòng dõi của kẻ được ban phước bởi Đức Giê-hô-va, con cháu họ cùng với họ nữa.
24 Ta sẽ nhậm lời họ trước khi kêu cầu ta; họ còn nói, ta đã nghe rồi.
25 Muông sói với chiên con sẽ ăn chung, sư tử ăn rơm như bò, rắn ăn bụi đất. Sẽ chẳng có ai làm tổn hại hay là hủy phá trong khắp núi thánh ta, Đức Giê-hô-va đã phán vậy.