2 Niin heidän lapsensakin muistavat nämä alttarit ja asera-paalut, joita on vihreiden puiden katveessa, korkeilla kukkuloilla
3 ja asumattomilla vuorilla. Minä annan ryöstäjien käsiin kaikki sinun tavarasi ja aarteesi, myös uhrikukkulasi. Tämä on rangaistus synneistä, joita olet tehnyt kaikkialla tässä maassa.
5 Näin sanoo Herra: -- Kirottu on se mies, joka turvaa ihmisiin, katoavaisten ihmisten voimaan, mies, jonka sydän luopuu Herrasta!
6 Hän on kuin piikkipensas, joka yksin kituu aavikolla, kasvaa kivierämaassa, suolaisella kamaralla, missä kukaan ei asu.
7 Siunattu on se mies, joka luottaa Herraan ja panee turvansa häneen!
8 Hän on kuin puron partaalle istutettu puu, joka kurottaa juurensa veteen. Ei se pelkää helteen tuloa, sen lehvät pysyvät aina vihreinä. Vaikka tulee kuiva vuosi, ei sillä ole mitään hätää, silloinkin se kantaa hedelmää.
9 Petollinen on ihmissydän, paha ja parantumaton vailla vertaa! Kuka sen tuntee?
10 Minä, Herra, tutkin sydämet, tiedän salaisimmatkin ajatukset. Minä annan kullekin sen mukaan, miten hän elää ja millaisia ovat hänen tekojensa hedelmät.
11 Joka vääryydellä hankkii omaisuutta, on kuin peltopyy, joka hautoo vieraan linnun munia. Jo voimiensa päivinä hän menettää kaiken, ja lopulta hän on pelkkä narri.
12 -- Kunnian valtaistuin, korkealle korotettu alusta asti, on meidän pyhäkkömme paikka.
13 Herra, sinä olet Israelin toivo! Kaikki, jotka hylkäävät sinut, saavat onnettoman lopun, jotka luopuvat sinusta, häviävät kuin tomuun kirjoitetut nimet. Sillä he ovat hylänneet Herran, elävän veden lähteen.
14 Paranna sinä minut, Herra, niin minä paranen. Auta minua, niin minä saan avun. Sinua yksin minä ylistän!
16 Sinä, Herra, tiedät, etten ole pakoillut paimenen tehtävää, jonka minulle annoit. En minä ole toivonut tuhon päivää. Sinä tiedät kyllä kaiken, mitä olen julistanut.
17 Älä täytä minua kauhulla! Sinä olet ainoa turvani, kun onnettomuuden päivä tulee.
18 Saakoot onnettoman lopun ne, jotka minua vainoavat, mutta säästä minut! Anna heidän joutua kauhun valtaan, älä minun! Tuo heille onnettomuuden päivä, tuhoa heidät, tuhoa perin pohjin!
20 Sano näin: Kuulkaa, mitä Herra sanoo teille, te Juudan kuninkaat ja Juudan ja Jerusalemin asukkaat, jotka kuljette näistä porteista!
21 Herra puhuu näin: Jos tahdotte elää, pitäkää huoli siitä, ettette kanna sapattina mitään kantamusta ettekä tuo mitään sisään Jerusalemin porteista!
22 Älkää viekö sapatinpäivänä mitään ulos taloistanne älkääkä tehkö mitään työtä. Pyhittäkää sapatti, niin kuin minä käskin teidän isienne tehdä.
23 Mutta isänne eivät kuunnelleet minua, eivät ottaneet kuuleviin korviinsa, mitä minä sanoin. He olivat uppiniskaisia, eivät totelleet minua eivätkä ottaneet mitään opikseen.
25 niin näistä porteista kulkee hoviväkensä kanssa kuninkaita, jotka ajavat vaunuilla ja hevosilla ja jotka istuvat Daavidin valtaistuimella. Myös Juudan ja Jerusalemin asukkaat tulevat, ja tämä kaupunki on aina oleva asuttu.
26 He tulevat Juudan kaupungeista ja Jerusalemin ympäristöstä, Benjaminin maasta, läntisiltä kukkuloilta, vuorilta ja Negevistä ja tuovat Herran temppeliin polttouhreja, teurasuhreja, ruokauhreja ja suitsuketta, tuovat hänelle myös kiitosuhrinsa.
1 Tội của Giu-đa đã chép bằng bút sắt, bằng dùi kim cương; đã chạm trên bảng trong lòng chúng nó, và trên sừng những bàn thờ các ngươi.
2 Con cái chúng nó nhớ lại bàn thờ và hình tượng chúng nó đã lập lên gần các cây xanh và trên gò cao.
3 Hỡi hòn núi ta trong đồng, ta sẽ phó của cải, châu báu và các nơi cao ngươi làm của cướp; vì cớ tội lỗi ngươi đã phạm trên khắp bờ cõi mình.
4 Ngươi sẽ bỏ mất cơ nghiệp ta đã ban cho, ấy là tự ngươi làm lấy; ta sẽ bắt ngươi phục kẻ thù ngươi trong một xứ mà ngươi chưa từng biết; vì ngươi đà nhen lửa giận ta lên, thì nó cháy hoài hoài.
5 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Đáng rủa thay là kẻ nhờ cậy loài người, lấy loài xác thịt làm cánh tay, lòng lìa khỏi Đức Giê-hô-va.
6 Nó sẽ như thạch thảo trong sa mạc, không thấy phước đến, nhưng ở trong nơi đồng vắng khô khan, trên đất mặm không dân ở.
7 Đáng chúc phước thay là kẻ nhờ cậy Đức Giê-hô-va, và lấy Đức Giê-hô-va làm sự trông cậy mình.
8 Nó cũng như cây trồng nơi bờ suối, đâm rễ theo dòng nước chảy; ngộ khi trời nắng, chẳng hề sợ hãi, mà lá cứ xanh tươi. Gặp năm hạn hán cũng chẳng lo gì, mà cứ ra trái không dứt.
9 Lòng người ta là dối trá hơn mọi vật, và rất là xấu xa: ai có thể biết được?
10 Ta, Đức Giê-hô-va, dò xét trong trí, thử nghiệm trong lòng, báo cho mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả của việc họ làm.
11 Kẻ nào được giàu có chẳng theo sự công bình, cũng như chim đa đa ấp trứng mà mình chẳng đẻ ra; đến nửa đời người, nó phải mất hết, cuối cùng nó ra là ngu dại.
12 Ngôi vinh hiển được lập lên từ ban đầu, ấy là nơi thánh của dân chúng ta!
13 Hỡi Đức Giê-hô-va, là sự trông cậy của Y-sơ-ra-ên, những kẻ nào bỏ Ngài đều sẽ bị xấu hổ! Những kẻ lìa khỏi ta sẽ bị ghi trên đất, vì họ đã bỏ suối nước sống, tức là Đức Giê-hô-va.
14 Hỡi Đức Giê-hô-va! xin Ngài chữa tôi thì tôi sẽ được lành; xin Ngài cứu tôi thì tôi sẽ được rỗi: vì Ngài là Đấng mà tôi ngợi khen.
15 Nầy là lời người ta bảo tôi: Lời phán của Đức Giê-hô-va ở đâu? Rày hãy ứng nghiệm!
16 Còn tôi, tôi chẳng vội vàng bỏ chức chăn dân mà không theo Ngài. Tôi cũng không tự ý muốn mình trông được ngày khốn nạn, Ngài vẫn biết vậy. Lời miệng tôi nói ra điều ở trước mặt Ngài.
17 Ngài là nơi ẩn náu của tôi trong ngày hoạn nạn, xin chớ làm cớ cho tôi kinh khiếp!
18 Xin Ngài làm cho những kẻ bắt bớ tôi bị xấu hổ, mà chính tôi đừng bị xấu hổ; cho họ kinh hoàng! Xin cho ngày hoạn nạn lâm trên họ, và hủy hoại gấp hai!
19 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng: Hãy đi, đứng tại cửa của con cái dân sự, tức là cửa các vua Giu-đa thường ra vào, và tại hết thảy các cửa thành Giê-ru-sa-lem.
20 Ngươi khá nói rằng: Hỡi các vua nước Giu-đa, cùng cả dân Giu-đa, và hết thảy dân cư Giê-ru-sa-lem, là kẻ do các cửa nầy qua lại, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va.
21 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi hãy giữ, chớ khiêng gánh vào cửa thành Giê-ru-sa-lem.
22 Trong ngày Sa-bát, đừng khiêng gánh ra khỏi nhà các ngươi, cũng đừng ra khỏi nhà các ngươi, cũng đừng làm việc chi hết; nhưng hãy biệt riêng ngày Sa-bát ra thánh, như ta đã phán dặn tổ phụ các ngươi.
23 Nhưng mà, họ chẳng nghe, chẳng lắng tai; cứng cổ để chẳng nghe ta và chẳng chịu dạy.
24 Đức Giê-hô-va phán: Nếu các ngươi chăm chỉ nghe ta, nếu các ngươi không khiêng gánh vào cửa thành ấy trong ngày sa-bát, nếu các ngươi biệt riêng ngày sa-bát ra thánh và không làm việc gì trong ngày đó,
25 thì các vua và các quan trưởng ngồi trên ngai Đa-vít sẽ cỡi xe cỡi ngựa, cùng với các quan trưởng người Giu-đa, và dân cư Giê-ru-sa-lem do cử thành ấy mà vào; và thành ấy sẽ còn đời đời.
26 Người ta sẽ đến từ các thành của Giu-đa và từ các nơi chung quanh Giê-ru-sa-lem, từ xứ Bên-gia-min, từ đất đồng bằng, đất núi, và phương Nam, đặng đem của lễ thiêu và các của lễ, của lễ chay cùng nhũ hương, và đem của lễ thù ân đến nhà Đức Giê-hô-va.
27 Nhưng nếu các ngươi không nghe ta để biệt ngày sa-bát ra thánh, mà trong ngày sa-bát khiêng gánh và vào cửa thành Giê-ru-sa-lem, thì ta sẽ đặt lửa nơi cửa thành, lửa ấy sẽ thiêu hủy cung điện của Giê-ru-sa-lem, không bao giờ tắt.