1 Kuningas Jojakimin, Josian pojan, neljäntenä hallitusvuotena, joka oli samalla Babylonian kuninkaan Nebukadnessarin ensimmäinen hallitusvuosi, tuli profeetta Jeremialle Juudaa koskeva sana.
2 Tämän sanan hän puhui koko Juudan kansalle ja kaikille Jerusalemin asukkaille. Jeremia sanoi:
4 Jo ennenkin Herra on yhä uudelleen lähettänyt luoksenne palvelijoitaan, profeettoja, mutta te ette ole kuunnelleet heitä. Te ette ottaneet kuuleviin korviinne, mitä he puhuivat!
5 Herra lähetti heidät sanomaan: 'Kääntykää kaikki pahoilta teiltänne ja pahoista teoistanne, niin saatte asua maassa, jonka minä annoin teille ja teidän isillenne ikuisiksi ajoiksi.
6 Älkää seuratko vieraita jumalia, älkää palvelko ja rukoilko niitä! Älkää suututtako minua jumalilla, jotka olette itse tehneet, muuten minä syöksen teidät tuhoon!'
7 Mutta te ette kuunnelleet minua, vaan suututitte minut epäjumalankuvillanne ja veditte päällenne onnettomuuden.
9 minä kutsun tänne kaikki pohjoisen kansat ja palvelijani Nebukadnessarin, Babylonian kuninkaan. Minä tuon heidät tämän maan, sen asukkaiden ja kaikkien sen naapurikansojen kimppuun. Minä vihin teidät tuhon omaksi, teen maanne autioksi, pelkäksi rauniokasaksi, jossa ei koskaan enää asuta. Kaikki kavahtavat teidän kohtaloanne!
10 Minä vaiennan keskeltänne riemun ja ilon huudot, sulhasen äänen ja morsiamen äänen. Minä vaiennan jauhinkivien äänen ja annan lamppujen valon sammua.
11 Koko tämä maa tulee täyteen raunioita ja autioituu, ja nämä kansat palvelevat Babylonian kuningasta seitsemänkymmentä vuotta.
13 Minä annan toteutua kaiken, mitä olen sanonut tuosta maasta -- kaiken, mitä Jeremia on eri kansoista ennustanut ja mitä tähän kirjaan on kirjoitettu.
17 Niin minä otin maljan Herran kädestä ja juotin vihan viinin kaikille kansoille, joiden luokse Herra minut lähetti:
18 Jerusalemille ja kaikille Juudan kaupungeille, Juudan kuninkaille ja päämiehille, jotta kaupungit tulisivat raunioiksi ja autioiksi, pilkan kohteeksi ja kirosanaksi, niin kuin tänäkin päivänä vielä on;
19 faraolle, Egyptin kuninkaalle, ja hänen hovilleen, päämiehilleen ja koko kansalle;
20 kaikenlaisille vierasmaalaisille, kaikille Usin maan kuninkaille, kaikille Filistean kuninkaille, Askelonin, Gazan ja Ekronin kaupungeille ja sille väelle, joka vielä on jäljellä Asdodissa;
21 Edomille, Moabille ja ammonilaisille;
22 kaikille Tyroksen kuninkaille, kaikille Sidonin kuninkaille, kaikille merentakaisten saarten ja rantojen kuninkaille;
23 Dedanille, Temalle, Busille ja muille heimoille, jotka ovat ajaneet hiuksensa lyhyiksi ohimoilta;
24 kaikille Arabian kuninkaille ja muillekin autiomaassa asuvien heimojen kuninkaille;
25 kaikille Simrin kuninkaille, kaikille Elamin kuninkaille ja kaikille Meedian kuninkaille;
26 kaikille pohjoisen kuninkaille, niin lähellä kuin kaukana asuville, jokaiselle vuorollaan. Kaikille valtakunnille maan päällä minä juotin Herran vihan maljan. Viimeksi siitä juo Sesakin kuningas.
28 Mutta jos he kieltäytyvät ottamasta maljaa kädestäsi ja juomasta, sano heille: 'Näin sanoo Herra Sebaot: Teidän on juotava!
29 Kun minä annan tuhon ensin kohdata sitä kaupunkia, jonka olen ottanut omakseni, niin luuletteko, että te muut jäisitte rankaisematta? Ette jää! Minä lähetän miekan kaikkien ihmisten kimppuun maan päällä, sanoo Herra Sebaot.'
30 -- Julista sinä, Jeremia, nämä sanat, sano heille näin: Herra ärjyy korkeudesta, antaa äänensä kaikua pyhästä asunnostaan, hän ärjyy ja jylisee laitumensa yli. Niin kuin viinirypäleiden polkijain huuto kiirii kauas, niin kajahtaa Herran huuto kaikkien korviin, jotka maan päällä asuvat.
31 Sen pauhu kantautuu maan ääriin saakka. Herra käy oikeutta kansojen kanssa, hän vaatii tilille kaikki ja antaa miekan surmata jumalattomat.
33 Sinä päivänä kaikkialla, maan äärestä ääreen, viruu kuolleita, jotka Herra on surmannut. Ei heille pidetä valittajaisia, ei heitä koota eikä haudata, vaan heidän ruumiinsa jäävät hajalleen maatumaan.
34 -- Huutakaa, paimenet, valittakaa! Kieriskelkää tomussa, te laumojen johtajat, sillä aika on tullut, jolloin te joudutte teurastettaviksi. Te kaadutte, te hajoatte sirpaleiksi kuin kallisarvoinen astia!
35 Paimenet eivät pääse pakoon, laumojen johtajat eivät löydä turvapaikkaa.
36 Kuulkaa: paimenet huutavat, laumojen johtajat valittavat! Herra hävittää heiltä niityt.
37 Heidän turvalliset laitumensa tuhoutuvat Herran hehkuvan vihan alla.
38 Niin kuin leijona nousee tiheiköstään, niin on Herra lähtenyt liikkeelle. Tappavalla miekallaan, hehkuvalla vihallaan hän tekee heidän maansa autioksi!
1 Nầy là lời phán cùng Giê-rê-mi về cả dân Giu-đa, trong năm thứ tư đời Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si -a, vua của Giu-đa; ấy là năm thứ nhứt đời Nê-bu-cát-nết-sa, vua nước Ba-by-lôn.
2 Đấng tiên tri Giê-rê-mi rao truyền những lời nầy trước mặt dân Giu-đa và hết thảy dân cư Giê-ru-sa-lem rằng:
3 Từ năm thứ mười ba đời Giô-si -a, con trai A-môn, vua của Giu-đa, cho đến ngày nay có hai nươi ba năm, lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi. Từ lúc đó, tôi dậy sớm nói cùng các ngươi; nhưng các ngươi chẳng khứng nghe tôi.
4 Đức Giê-hô-va đã sai các đầy tớ Ngài, là các tiên tri, đến cùng các ngươi, dậy sớm mà sai đến, nhưng các ngươi không nghe lời, không để tai mà nghe.
5 Các đấng ấy nói rằng: Mỗi người trong các ngươi hãy từ đường dữ mình trở lại; hãy bỏ điều ác của việc làm mình, và ở trong đất mà Đức Giê-hô-va đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi từ xưa cho đến đời đời.
6 Chớ theo các thần khác đặng hầu việc và thờ lạy, chớ lấy việc tay mình làm ra mà chọc giận ta nữa, thì ta sẽ không làm hại chi các ngươi.
7 Đức Giê-hô-va phán: Nhưng các ngươi chẳng nghe ta, mà lấy việc làm của tay mình chọc giận ta, và chuốc lấy tai hại cho mình.
8 Vậy nên, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Vì các ngươi đã chẳng nghe lời ta,
9 nầy, ta sẽ sai đòi mọi họ hàng phương bắc cùng đầy tớ ta là Nê-bu-các-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đến nghịch cùng đất nầy, nghịch cùng dân cư nó, và các nước ở chung quanh. Ta sẽ diệt hết chúng nó, làm chúng nó nên sự gở lạ, chê cười, và hoang vu đời đời. Đức Giê-hô-va phán vậy.
10 Vả, ta sẽ làm cho trong vòng chúng nó hết tiếng reo vui và kêu-mừng, hết tiếng của rể mới và dâu mới, hết tiếng ầm ầm của cối xay và ánh sáng của đèn.
11 Cả đất nầy sẽ trở nên hoang vu gở lạ, các nước nầy sẽ phục sự vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
12 Đức Giê-hô-va phán: Khi bảy mươi năm ấy sẽ mãn, ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và dân người, vì cớ tội ác chúng nó. Ta sẽ phạt xứ người Canh-đê và biến thành một nơi hoang vu đời đời.
13 Phàm lời ta đã phán nghịch cùng đất ấy, tức lời chép trong sách nầy, là lời Giê-rê-mi đã nói tiên tri nghịch cùng muôn nước, thì sẽ xảy đến cho đất ấy.
14 Vả, sẽ có nhiều nước và vua lớn bắt chính người Canh-đê làm tôi mọi, và ta sẽ báo chúng nó theo việc làm của chúng, và theo việc bởi tay chúng làm ra.
15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán cùng tôi như vầy: Hãy lấy chén rượu của sự giận khỏi tay ta, khá cho các dân mà ta sai ngươi đến đều uống lấy.
16 Chúng nó sẽ uống, sẽ đi xiêu tó, và điên cuồng, vì cớ gươm dao mà ta sẽ sai đến giữa chúng nó.
17 Vậy tôi lấy chén khỏi tay Đức Giê-hô-va, và khiến cho mọi nước mà Đức Giê-hô-va sai tôi đến đều uống lấy:
18 cho Giê-ru-sa-lem và cho các thành của Giu-đa, cho các vua các quan trưởng nó, làm cho chúng nó hoang vu, gở lạ, bị chê cười, chịu rủa sả như ngày nay;
19 cho Pha-ra-ôn, vua nước Ê-díp-tô, cho những đầy tớ người, cho các quan trưởng và dân sự người;
20 cho mọi dân lộn, cho mọi vua xứ Ut-xơ, cho mọi vua xứ Phi-li-tin: tức vua của Ach-ca-lôn, của Ga-xa, của Ec-rôn, và những kẻ còn sống sót ở Ach-đốt;
21 cho Ê-đôm, cho Mô-áp, cho con cái Am-môn;
22 cho các vua Ty-rơ, cho mọi vua ở Si-đôn, và cho mọi vua ở cù lao ngoài biển;
23 cho Đê-đan, cho Thê-ma, cho Bu-xơ, cho những kẻ cạo tóc chung quanh đầu;
24 cho mọi vua A-ra-bi, cho các vua của các nước thuộc về các giống lộn ở đồng vắng;
25 cho mọi vua của Xim-ri, cho mọi vua của Ê-lam, cho mọi vua của Mê-đi;
26 cho mờ tối vua phương bắc, ở gần hoặc ở xa, cho vua nầy cùng với vua kia; sau lại, cho mọi nước thế gian ở trên mặt đất. Vua của Sê-sác cũng sẽ uống chén sau các vua kia.
27 Ngươi khá bảo họ rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy uống đi hãy say, mửa, ngã xuống, đừng dậy nữa, vì cớ gươm dao mà ta sẽ sai đến giữa các ngươi!
28 Nếu họ không khứng lấy chén ở tay ngươi đặng uống, thì ngươi khá bảo rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Chắc các ngươi phải uống!
29 Vả, nầy, ấy là thành kia là thành được xưng bằng danh ta, mà ta bắt đầu xuống tai vạ; còn các ngươi, há khỏi hình phạt được cả sao? Không! các ngươi sẽ không khỏi hình phạt đâu; vì ta sẽ sai gươm dao đến trên mọi dân cư trên đất, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
30 Cho nên ngươi khá lấy mọi lời nầy nói tiên tri nghịch cùng họ, và bảo rằng: Đức Giê-hô-va quát tháo từ nơi cao; phát tiếng từ chỗ ở thánh Ngài; quát tháo to nghịch cùng chuồng chiên; trổi tiếng kêu như những kẻ đạp trái nho, nghịch cùng hết thảy dân cư trên đất.
31 Tiếng om sòm sẽ vang ra đến cùng đất; vì Đức Giê-hô-va tranh cạnh cùng các nước, phán xét mọi xác thịt, phó những kẻ dữ cho gươm dao, Đức Giê-hô-va phán vậy.
32 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Nầy, tai vạ sẽ từ một dân nầy qua một dân khác; một trận bão lớn dấy lên từ các nơi đầu cùng đất.
33 Thây của những kẻ mà Đức Giê-hô-va đã giết trong ngày đó, sẽ đầy trên đất từ đầu nầy đến đầu kia; chẳng ai khóc, chẳng thâu liệm, chẳng chôn, sẽ làm phân trên mặt đất!
34 Hỡi những kẻ chăn, hãy than khóc, cất tiếng than van! Hỡi những kẻ dẫn bầy chiên, hãy lăn trong tro bụi! Vì ngày các ngươi bị giết, kỳ các ngươi bị tan lạc đã đến hạn; các ngươi sẽ ngã xuống như bình quí giá.
35 Kẻ chăn không bởi đâu trốn tránh, kẻ dẫn bầy chiên không bởi đâu thoát ra.
36 Kẻ chăn phát tiếng kêu, kẻ dẫn bầy chiên than khóc; vì Đức Giê-hô-va phá hoang đồng cỏ họ,
37 và những chuồng chiên yên ổn đã bị bắt phải nín lặng bởi sự nóng giận của Đức Giê-hô-va.
38 Ngài như sư tử đã ra khỏi chỗ kín mình. Đất chúng nó đã trở nên gở lạ bởi sức mạnh rất hung đè nén, và cơn giận rất mãnh liệt.