1 Herra sanoi Joosualle:

3 Jokainen, joka ilman pahaa aikomusta on vahingossa surmannut toisen ihmisen, voi paeta johonkin niistä. Näissä kaupungeissa hän on turvassa verikostoon velvoitetulta vainajan sukulaiselta.

4 Sen, joka pakenee tällaiseen kaupunkiin, on pysähdyttävä kaupungin portille ja esitettävä ensin asiansa kaupungin vanhimmille. Vanhimpien on päästettävä hänet kaupunkiin ja osoitettava hänelle sieltä paikka, johon hän voi asettua asumaan.

5 Jos verikostaja ajaa häntä takaa, vanhimmat eivät saa luovuttaa häntä kostajan käsiin, koska teko oli tapahtunut ilman tappamisen tarkoitusta eikä surmaaja entuudestaan ollut surmatun vihamies.

7 Israelilaiset pyhittivät turvapaikoiksi Kedesin kaupungin Naftalin vuorilta Galileasta, Sikemin Efraimin vuoristosta ja Kirjat-Arban eli Hebronin Juudan vuoristosta.

8 Jordanin toiselta puolen, Jerikosta itään, he pyhittivät Ruubenin heimon alueelta Beserin kaupungin, joka sijaitsi ylängöllä autiomaan laidassa, Gadin heimon alueelta he pyhittivät Gileadissa sijaitsevan Ramotin ja Manassen heimon alueelta Basanissa sijaitsevan Golanin.

9 Nämä kaupungit nimettiin israelilaisten ja heidän keskuudessaan asuvien muukalaisten turvakaupungeiksi. Niihin saattoi paeta jokainen, joka oli vahingossa lyönyt toisen hengiltä ja verikoston pelosta halusi saada asiansa heti julkisesti tutkittavaksi.

1 Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-suê rằng:

2 Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên mà rắng: Hãy lập các thành ẩn náu, mà ta đã cậy Môi-se phán cùng các ngươi,

3 hầu cho kẻ sát nhơn vì bất ý giết ai có thế trốn đó được; các thành ấy dùng cho các ngươi ẩn náu khỏi kẻ báo thù huyết.

4 Kẻ sát nhơn sẽ chạy trốn đến một của các thành này, đứng nơi cửa thành, thuật sự tình cho các trưởng lão của thành ấy nghe. Các trưởng lão sẽ tiếp dẫn người vào trong thành, chỉ định cho một chỗ ở tại giữa mình.

5 Nếu kẻ báo thù huyết đuổi theo, các trưởng lão chớ nộp kẻ sát nhơn vào tay người; vì kẻ ấy giết người lân cận mình, không có ý muốn, và trước khi vốn không ghét người.

6 Người phải ở trong thành ấy cho đến chừng chịu đoán xét trước mặt hội chúng, cho đến chừng thầy tế kễ thượng phẩm đương chức qua đời. Kế đó, kẻ sát nhơn sẽ trở về vào thành và nhà mình, tức là thành mà mình đã trốn khỏi.

7 Vậy, dân Y-sơ-ra-ên để riêng ra Kê-đe ở Ga-li-lê tại trên núi Ep-ra-im, và Ki-ri-át -A-ra-ba, tức là Hếp-rôn, ở trên núi Giu-đa.

8 Bên kia sông Giô-đanh, phía đông thành Giê-ri-cô, trong chi phái Ru-bên, họ chỉ định Bết-se ở trong đồng bằng tại sa mạc; trong chi phái Gát, Ra-mốt tại xứ Ga-la-át; và trong chi phái Ma-na-se, Gô-lan ở xứ Ba-san.

9 Đó là các thành chỉ định cho hết thảy dân Y-sơ-ra-ên, và cho khách lạ kiều ngụ trong đó; để người nào vô ý giết ai, có thể ẩn núp tại đó được, hầu cho không bị tay kẻ báo thù huyết giết chết, cho đến khi ứng hầu trước mặt hội chúng.