1 Joosua kutsui koolle Ruubenin ja Gadin heimot sekä Manassen heimon toisen puoliskon

3 Koko tänä aikana ette ole hylänneet veljiänne, vaan olette noudattaneet Herran, Jumalanne, käskyjä.

4 Nyt Herra on antanut teidän veljienne päästä asumaan rauhassa, kuten hän lupasi, ja myös te voitte palata kotiin siihen maahan, joka teille kuuluu ja jonka Mooses, Herran palvelija, antoi teille omaksi Jordanin itäpuolelta.

6 Sitten Joosua siunasi heidät ja saattoi heidät matkaan, ja he lähtivät koteihinsa.

7 Mooses oli antanut Manassen heimon toiselle puoliskolle maata Basanista, ja Joosua antoi heimon toiselle puoliskolle maata Jordanin länsipuolelta samalla kun hän antoi maata muille israelilaisille. Hyvästellessään lähtijöitä Joosua siunasi heidät

9 Niin Ruubenin ja Gadin heimot sekä Manassen heimon toinen puolisko erkanivat muista israelilaisista Silossa, Kanaaninmaassa, ja lähtivät Gileadiin, omaan maahansa, jonka he olivat saaneet Herran Moosekselle antaman säädöksen mukaisesti.

10 Kun ruubenilaiset, gadilaiset ja manasselaiset tulivat Jordanin Gelilotiin, joka on Kanaaninmaassa, he rakensivat siellä Jordanin rannalle suuren ja komean alttarin.

11 Muut israelilaiset saivat tietää, että he olivat rakentaneet alttarin Kanaaninmaan rajalle israelilaisten alueelle Jordanin Gelilotiin.

12 Silloin koko kansa kokoontui Siloon lähteäkseen sotaretkelle itäisiä heimoja vastaan.

13 Israelilaiset lähettivät pappi Pinehasin, Eleasarin pojan, Gileadin maahan Ruubenin ja Gadin heimojen ja Manassen heimon toisen puoliskon luo.

14 Pinehasin mukana he lähettivät myös kymmenen päällikköä, yhden jokaisesta sukukunnasta, jokaisesta Israelin heimosta. Kukin näistä miehistä oli sukunsa päämies ja kuului Israelin sotajoukon päällikköihin.

15 Tultuaan ruubenilaisten, gadilaisten ja manasselaisten luo Gileadin maahan he sanoivat näille:

17 Eikö meille riitä Peorissa tehty synti, josta saimme rangaistuksen ja josta emme vieläkään ole puhtaat?

18 Jos te tänään luovutte Herrasta ja nousette häntä vastaan kapinaan, niin huomenna hän vihastuu koko Israelin kansaan.

19 Jos pidätte saamaanne maata epäpuhtaana, tulkaa Herran omaan maahan, jossa hänen telttamajansa sijaitsee, ja asettukaa asumaan meidän keskuuteemme. Mutta älkää kapinoiko Herraa vastaan älkääkä nousko kapinaan meitäkään vastaan. Älkää siis rakentako omaa alttaria, joka ei ole oikea Herran, meidän Jumalamme, alttari.

21 Silloin ruubenilaiset, gadilaiset ja manasselaiset vastasivat Israelin joukkojen päämiehille:

23 Jos olemme rakentaneet tämän alttarin luopuaksemme sinusta ja uhrataksemme polttouhreja, ruokauhreja ja yhteysuhreja, niin rankaise sinä meitä, Herra!

24 Me rakensimme tämän, koska meillä oli huoli siitä, että teidän jälkeläisenne saattaisivat joskus tulevaisuudessa sanoa meidän jälkeläisillemme: 'Mitä tekemistä teillä on Herran, Israelin Jumalan kanssa?

25 Herra on asettanut Jordanin erottamaan meidät teistä ruubenilaisista ja gadilaisista. Teillä ei ole mitään osuutta Herraan.' Tällaisin puhein teidän jälkeläisenne voisivat saada meidän jälkeläisemme luopumaan Herrasta.

27 Sen on oltava todisteena teille ja meille sekä myös jälkipolvillemme siitä, että mekin saamme palvella Herraa hänen pyhäkössään polttouhreillamme, teurasuhreillamme ja yhteysuhreillamme. Silloin teidän jälkeläisenne eivät voi tulevaisuudessa sanoa meidän jälkeläisillemme, ettei näillä ole osuutta Herraan.'

28 Mutta jos he joskus niin sanovat meille tai meidän jälkeläisillemme, me vastaamme heille: 'Katsokaa tätä alttaria, jonka meidän isämme rakensivat Herran alttarin kaltaiseksi, ei polttouhreja eikä teurasuhreja varten, vaan todisteeksi teille ja meille.

30 Pappi Pinehas sekä kansan päämiehet ja Israelin joukkojen päälliköt, jotka olivat hänen kanssaan, hyväksyivät sen, mitä ruubenilaiset, gadilaiset ja manasselaiset sanoivat.

32 Pappi Pinehas, Eleasarin poika, ja päälliköt palasivat Gileadista ruubenilaisten ja gadilaisten luota Kanaaninmaahan muiden israelilaisten luo ja toivat heille nämä tiedot.

33 Israelilaiset hyväksyivät selityksen ja ylistivät Herraa. He lakkasivat suunnittelemasta maanmiehiään vastaan sotaretkeä, jonka tarkoituksena oli ollut hävittää ruubenilaisten ja gadilaisten maa.

34 Ruubenilaiset ja gadilaiset antoivat alttarille nimen Todistaja, koska alttari oli heille ja muille israelilaisille todisteena siitä, että Herra on Jumala.

1 Bấy giờ, Giô-suê gọi người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se,

2 mà nói rằng: Các ngươi đã giữ theo mọi điều Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, truyền cho các ngươi, và có vâng theo tiếng ta trong mọi điều ta dặn biểu.

3 Trong khoảng lâu ngày nay, các ngươi không có bỏ anh em mình cho đến ngày nay, và có vâng giữ mọi điều phải vâng giữ, tức là mạng lịnh của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.

4 Nên bây giờ, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi ban sự an nghỉ cho anh em các ngươi, y như lời Ngài đã phán. Vậy, hãy đi trở về trại các ngươi trong xứ thuộc về các ngươi mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã ban cho các ngươi ở bên kia sông Giô-đanh.

5 Song phải cẩn thận làm theo điều răn và luật pháp mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền cho các ngươi, tức là thương yêu Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, đi theo đường lối Ngài, giữ các điều răn Ngài, tríu mến Ngài, và hết lòng hết ý phục sự Ngài.

6 Giô-suê bèn chúc phước cho họ, rồi cho họ về; họ đều trở về trại mình.

7 Vả, Môi-se đã ban cho phân nửa chi phái Ma-na-se một sản nghiệp ở tại Ba-san; còn Giô-suê ban cho phân nửa kia một sản nghiệp chung với anh em mình ở bên này sông Giô-đanh, về phía tây. Khi Giô-suê cho chúng trở về trại mình, thì chúc phước cho,

8 và nói rằng: Các ngươi trở về trại mình có đem của cải rất nhiều, có lắm bầy súc vật, cùng vàng, bạc, đồng, sắt, và áo xống phủ phê; hãy chia cho anh em mình của cướp được nơi thù nghịch các ngươi.

9 Vậy, người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se lìa dân Y-sơ-ra-ên tại Si-lô, đặng trở về Ga-la-át, là sản nghiệp mình, mà mình đã nhận lấy theo mạng lịnh của Đức Giê-hô-va cậy Môi-se truyền cho.

10 Khi đến trong địa hạt Giô-đanh thuộc về xứ Ca-na-an, thì người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se lập một bàn thờ tại đó gần sông Giô-đanh; bàn thờ ấy xem thấy rất cao lớn.

11 Dân Y-sơ-ra-ên nghe được người ta nói rằng: Kìa người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đã lập một bàn thờ trong địa hạt Giô-đanh đối ngang xứ Ca-na-an, bên cạnh dân Y-sơ-ra-ên.

12 Khi dân Y-sơ-ra-ên hay được điều đó, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên bèn hiệp lại tại Si-lô, đặng kéo lên hãm đánh họ.

13 Dân Y-sơ-ra-ên sai Phi-nê -a, con trai thầy tế lễ Ê-lê -a-sa, đến cùng người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se tại xứ Ga-la-át;

14 cũng có mười trưởng tộc theo người, một trưởng tộc cho mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên; mỗi người trong họ là trưởng tộc của hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên.

15 Chúng đến gần người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se trong xứ Ga-la-át, mà nói rằng:

16 Cả hội chúng của Đức Giê-hô-va có hỏi như vầy: Sự bất trung này mà các ngươi đã phạm cùng Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là chi? Vì sao ngày nay các ngươi bỏ Đức Giê-hô-va, mà lập một bàn thờ đặng phản nghịch cùng Đức Giê-hô-va?

17 Tội ác của Phê-ô gây vạ cho cả hội chúng của Đức Giê-hô-va, mà đến bây giờ chúng ta chưa rửa sạch được, há là một việc nhỏ mọn cho chúng ta sao?

18 Ngày nay các ngươi lại bỏ Đức Giê-hô-va ư! Vả, nếu ngày nay các ngươi phản nghịch cùng Đức Giê-hô-va, ngày mai chắc Ngài sẽ nổi giận cùng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên.

19 Song nếu đất các ngươi nhận được bị ô uế, thì hãy đi qua đất mà Đức Giê-hô-va đã chiếm lấy, là nơi đã lập đền tạm của Đức Giê-hô-va, và hãy lập nghiệp ở giữa chúng ta; nhưng chớ phản nghịch cùng Đức Giê-hô-va, và đừng phân rẽ chúng ta ra, mà lập một bàn thờ kình địch cùng bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.

20 A-can, con trai Xê-rách, há chẳng có phạm một tội bất trung về vật đáng diệt, và cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va há chẳng nổi phừng cùng cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sao? Và người ấy chẳng phải một mình chết vì tội mình đâu!

21 Bấy giờ, người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se đáp cùng trưởng tộc hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên, mà rằng:

22 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời toàn năng, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời toàn năng biết điều đó, và Y-sơ-ra-ên sẽ rõ! Nếu ấy là phản nghịch, nếu là bất trung cùng Đức Giê-hô-va, thì ngày nay chớ cứu chúng tôi!

23 Nếu chúng tôi có lập một bàn thờ đặng lìa bỏ Đức Giê-hô-va, nếu để dâng của lễ thiêu, của lễ chay, và của lễ thù ân tại đó, nguyện chánh Đức Giê-hô-va đòi lại chúng tôi!

24 Chúng tôi có ý lập bàn thờ, vì chúng tôi sợ con cháu của anh em một mai nói cùng con cháu chúng tôi rằng: Các ngươi có chi chung cùng Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên?

25 Hỡi con cháu Ru-bên, con cháu Gát, Đức Giê-hô-va đã đặt sông Giô-đanh làm giới hạn giữa chúng ta và các ngươi; các ngươi chẳng có phần chi nơi Đức Giê-hô-va! Như vậy con cháu của anh em sẽ làm cho con cháu chúng tôi thôi kính sợ Đức Giê-hô-va.

26 Bởi cớ đó, chúng tôi có nói rằng: Chúng ta hãy lập một bàn thờ, chẳng phải để dâng của lễ thiêu hay là dâng hi sinh;

27 nhưng để làm chứng giữa chúng tôi và anh em cùng con cháu sau chúng ta rằng chúng tôi dùng của lễ thiêu, của lễ chuộc tội, và của lễ thù ân mà giữ cuộc thờ phượng của Đức Giê-hô-va trước mặt Ngài; hầu cho về sau con cháu anh em không nói cùng con cháu chúng tôi rằng: Các ngươi không có phần nơi Đức Giê-hô-va!

28 Lại chúng tôi có nói: Khi nào họ sẽ nói điều đó cùng chúng tôi, hay là nói cùng con cháu sau chúng tôi, thì chúng tôi sẽ nói: Hãy xem hình dạng bàn thờ Đức Giê-hô-va, mà tổ phụ chúng ta đã lập, nào phải dùng cho của lễ thiêu hay là dâng hi sinh, nhưng để làm chứng giữa chúng tôi và các ngươi!

29 Chúng tôi ngày nay quyết không có ý phản nghịch cùng Đức Giê-hô-va và lìa bỏ Ngài, mà lập một bàn thờ khác hơn bàn thờ trước mặt đền tạm của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, đặng dùng nó dâng của lễ thiêu, của lễ chay, và những hi sinh.

30 Khi thầy tế lễ Phi-nê -a, các mục bá của hội chúng, các quan trưởng của hàng ngàn người Y-sơ-ra-ên đi theo người, đã nghe những lời của người Ru-bên, người Gát, và phân nửa chi phái Ma-na-se nói, thì điều lấy làm bằng lòng.

31 Phi-nê -a, con trai thầy tế lễ Ê-lê -a-sa, nói cùng người Ru-bên, người Gát, và người Ma-na-se, mà rằng: Ngày nay chúng tôi biết rằng Đức Giê-hô-va ngự giữa chúng ta, vì các ngươi không có phạm tội bất trung này cùng Đức Giê-hô-va; như vậy các ngươi đã giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay Đức Giê-hô-va.

32 Phi-nê -a, con trai thầy tế lễ Ê-lê -a-sa, cùng các quan trưởng từ giã người Ru-bên, người Gát ở xứ Ga-la-át, trở về xứ Ca-na-an cùng dân Y-sơ-ra-ên, thuật lại điều đã xảy qua.

33 Việc này dân Y-sơ-ra-ên lấy làm đẹp lòng; chúng bèn ngợi khen Đức Chúa Trời, và chẳng còn toan kéo lên đánh người Ru-bên và người Gát, đặng tàn hại xứ họ ở.

34 Vì vậy, người Ru-bên và người Gát đặt tên bàn thờ là Et, vì nói rằng nó làm chứng giữa chúng ta rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.