1 (H5:20)Herra sanoi Moosekselle:

3 (H5:22)tai jos hän totuuden vastaisesti kieltää löytäneensä kadonnutta omaisuutta ja väärin vannomalla vakuuttaa syyttömyyttään tällaisiin rikkomuksiin,

4 (H5:23)hän on tehnyt synnin ja joutunut syynalaiseksi. Hänen tulee palauttaa ryöstämänsä tai kiristämänsä omaisuus tai se, mikä hänen haltuunsa on uskottu, tai se, minkä hän on löytänyt.

5 (H5:24)Niin pian kuin hänen syyllisyytensä on osoitettu, hänen tulee palauttaa tai korvata omistajalle täydestä arvosta se, mitä hän on väärin vannoen väittänyt omakseen, ja maksaa lisäksi viidesosa sen arvosta.

6 (H5:25)Sovitusuhriksi hänen on tuotava Herralle sinun määräyksesi mukainen virheetön pässi. Hänen on vietävä se papille,

8 (H6:1)Herra sanoi Moosekselle:

10 Aamulla pappi pukeutukoon pellavapaitaansa ja pankoon jalkaansa pellavahousut alastomuutensa peitteeksi, kerätköön palaneesta polttouhrista alttarille jääneen rasvatuhkan ja pankoon sen alttarin viereen.

11 (H6:4)Sitten hän vaihtakoon ylleen toiset vaatteet ja vieköön rasvatuhkan pois leirin ulkopuolelle puhtaaseen paikkaan.

12 (H6:5)Tuli pidettäköön aina palamassa alttarilla. Pappi lisätköön uusia puita tuleen joka aamu, asettakoon niiden päälle polttouhrin ja polttakoon yhteysuhrien rasvat sen mukana.

13 (H6:6)Alttarilla palakoon aina tuli; se ei saa sammua.

15 (H6:8)Pappi ottakoon kourallisen parhaita vehnäjauhoja, joihin on kaadettu öljyä, ja kaiken suitsukkeen ruokauhrin päältä ja polttakoon tämän osan uhrista alttarilla muistutukseksi siitä, että uhri kuuluu Herralle. Se on uhri, jonka tuoksu on Herralle mieluisa.

16 (H6:9)Muun osan saavat Aaron ja hänen poikansa syödä. Se on leivottava happamattomiksi leiviksi ja syötävä pyhässä paikassa, pyhäkköteltan esipihassa.

17 Siitä älköön leivottako hapanta leipää. Minä olen antanut sen heidän osuudekseen tuliuhreistani, ja se osa, samoin kuin syntiuhrit ja hyvitysuhrit, on erityisen pyhä.

19 (H6:12)Herra sanoi Moosekselle:

21 (H6:14)Jauhot alustettakoon hyvin öljyyn, paistettakoon levyllä ruokauhrileiviksi ja tuotakoon Herralle uhrina, jonka tuoksu on hänelle mieluisa.

22 (H6:15)Se pappi, joka Aaronin jälkeläisistä on voideltu Aaronin seuraajaksi, valmistakoon ne uhriksi. Tämä uhri on Herran ikuinen osuus; siksi se on poltettava kokonaisuudessaan.

24 (H6:17)Herra sanoi Moosekselle:

26 (H6:18)Pappi, joka toimittaa syntiuhrin, syököön lihan, mutta se on syötävä pyhässä paikassa pyhäkköteltan esipihassa.

27 (H6:20)Jokaista muuta, joka koskee uhrilihaan, Herran pyhyys uhkaa kuolemalla. Jos uhrieläimen verta roiskuu vaatteelle, tahrautunut vaate on pestävä pyhässä paikassa.

28 (H6:21)Jos liha on keitetty saviastiassa, astia on rikottava. Jos se taas on keitetty pronssiastiassa, on astia hangattava puhtaaksi ja pestävä vedellä.

29 (H6:22)Jokainen miespuolinen pappissuvun jäsen saa syödä syntiuhrilihaa; se on erityisen pyhää.

30 (H6:23)Mutta sellaista syntiuhria, jonka verta viedään pyhäkkötelttaan sovituksen toimittamiseksi, ei saa syödä, vaan se on poltettava tulessa.

1 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:

2 Khi nào ai mắc tội phạm đến Đức Giê-hô-va, hoặc nói dối cùng người lân cận mình về đồ vật gởi hay là tin mà giao cho, hoặc về một tài vật trộm cắp, hoặc giựt lấy của người lân cận mình;

3 hoặc nếu xí được một của mất mà nói dối về của đó, hoặc thề dối về một trong các việc người ta phạm tội được;

4 khi nào đã phạm và mắc lỗi như vậy, thì phải trả lại vật mình đã ăn cắp, hoặc vật đã giựt lấy, hoặc vật đã tin gởi cho, hoặc vật làm mất xí được,

5 hoặc về các món người đã thề dối: người phải thường nguyên lại và phụ thêm một phần năm giá trị mà giao cho chủ vật đó ngày nào mình dâng của lễ chuộc sự mắc lỗi.

6 Tùy theo sự đánh giá của ngươi, người ấy phải bắt trong bầy một chiên đực không tì vít chi, dẫn đến thầy tế lễ mà dâng cho Đức Giê-hô-va đặng làm của lễ chuộc sự mắc lỗi mình;

7 thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người trước mặt Đức Giê-hô-va, thì lỗi người sẽ được tha, bất luận lỗi nào người đã mắc.

8 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:

9 Hãy truyền lịnh nầy cho A-rôn cùng các con trai người: Nầy là luật về của lễ thiêu: Của lễ thiêu phải ở trên đống lửa tại bàn thờ trọn đêm cho đến sáng mai, và lửa của bàn thờ giữ cho cháy luôn.

10 Thầy tế lễ sẽ mặc áo lá trong và quần bằng vải gai che thân mình, rồi hốt tro của lửa đã đốt của lễ thiêu trên bàn thờ, và đổ gần bên bàn thờ;

11 đoạn cổi áo nầy, mặc áo khác, đem tro nầy ra ngoài trại quân, đổ trong một nơi tinh sạch.

12 Lửa trên bàn thờ phải cháy luôn luôn, không nên tắt. Mỗi buổi sáng thầy tế lễ sẽ lấy củi chụm lửa thêm, sắp của lễ thiêu lên trên, và xông những mỡ về của lễ thù ân tại đó.

13 Lửa hằng cháy luôn luôn trên bàn thờ, chẳng nên tắt.

14 Đây là luật về của lễ chay: Các con trai A-rôn phải dâng của lễ nầy tại phía trước bàn thờ, trước mặt Đức Giê-hô-va.

15 Họ sẽ lấy một nắm bột lọc trong của lễ chay và dầu, cùng hết thảy nhũ hương ở trên, đem xông trên bàn thờ làm kỷ niệm về một của lễ có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.

16 Phần còn dư lại, A-rôn và các con trai người sẽ ăn không pha men, tại một nơi thánh, tức là ăn tại hành lang của hội mạc.

17 Họ không nên nấu bột đó với men; ấy là phần ta cho họ do trong các của lễ ta, dùng lửa dâng lên; thật là một vật chí thánh như của lễ chuộc tội và của lễ chuộc sự mắc lỗi.

18 Phàm người nam trong vòng con cái A-rôn, sẽ ăn lấy; ấy là một luật lệ đời đời cho dòng dõi các ngươi về những của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va: ai đụng đến những của lễ đó sẽ nên thánh.

19 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:

20 Nầy là của lễ A-rôn và các con trai người phải dâng cho Đức Giê-hô-va trong ngày họ chịu phép xức dầu: Một phần mười ê-pha bột lọc làm của lễ chay thường thường; sáng một phân nửa, chiều một phân nửa.

21 Của lễ đó sẽ chiên sẵn trên chảo trộn với dầu; chín rồi, ngươi phải đem đến cắt ra từ miếng sẵn dâng lên có mùi thơm cho Đức Giê-hô-va.

22 Con trai nào của A-rôn chịu xức dầu đặng thế cho người làm thầy tế lễ cũng phải dâng của lễ nầy. Ay là một luật lệ đời đời trước mặt Đức Giê-hô-va: họ phải xông hết trọn của lễ nầy.

23 Phàm của lễ chay của thầy tế lễ nào thì phải đốt hết, không nên ăn.

24 Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng:

25 Hãy truyền cho A-rôn và các con trai người rằng: Đây là luật về của lễ chuộc tội: Phải giết con sinh tế chuộc tội trước mặt Đức Giê-hô-va tại nơi người ta giết con sinh về của lễ thiêu; ấy là một vật chí thánh.

26 Thầy tế lễ đứng dâng con sinh tế chuộc tội, phải ăn thịt nó trong một nơi thánh, tức là trong hành lang của hội mạc.

27 Hễ ai đụng đến thịt con sinh sẽ nên thánh, và nếu huyết nó văng trên áo nào, thì phải giặt áo đó trong một nơi thánh.

28 Nồi đất dùng nấu thịt đó sẽ đập bể đi, nếu nồi nấu bằng đồng thì sẽ cạo và rửa nước cho sạch.

29 Hễ người nam trong vòng những thầy tế lễ sẽ ăn thịt đó: ấy là một vật chí thánh.

30 Nhưng chẳng nên ăn thịt con sinh tế chuộc tội có huyết nó đem vào hội mạc đặng làm lễ chuộc tội nơi đền thánh: hãy đốt nó đi.