3 -- Minä teen teidän sukunne kelvottomaksi papin tehtävään. Minä paiskaan uhrieläintenne suolet sontineen teidän silmillenne, viskaan juhlienne jätteet kasvoillenne, ja teidät itsennekin heitetään tuohon samaan tunkioon.

4 -- Huomatkaa nyt: tuon sanan minä olen lähettänyt teille siksi, että liitto, jonka tein Leevin kanssa, pysyisi voimassa, sanoo Herra Sebaot.

5 Minun liittoni oli tällainen: Elämän, rauhan ja menestyksen minä annoin hänelle, ja hän kunnioitti ja palveli minua, lähestyi minua vavisten.

6 Luotettava opetus oli hänen sanoissaan, eikä vääryyttä ollut hänen huulillaan. Vakaasti ja vilpittömästi hän vaelsi minun tietäni, ja monet hän palautti takaisin synnistä.

7 Papin suun tulee jakaa tietoa, hänen huuliltaan odotetaan opetusta. Hän on Herran Sebaotin sanansaattaja.

8 -- Mutta te olette poikenneet tieltä, teidän opetuksenne on saanut monet lankeamaan. Te olette rikkoneet liittoni, jonka tein Leevin kanssa, sanoo Herra Sebaot.

9 Niin minäkin teen teidät halveksituiksi ja saatan teidät häpeään kaiken kansan silmissä. Te ette pysyneet minun teilläni, vaan opettaessanne katsoitte, keitä kuulijat olivat.

10 Eikö meillä kaikilla ole sama isä? Eikö yksi ja sama Jumala ole meidät luonut? Miksi me kuitenkin petämme toinen toistamme ja häpäisemme liiton, jonka Jumala teki isiemme kanssa?

11 Juuda on ollut uskoton, iljettäviä tekoja on tehty Israelissa ja Jerusalemissa. Juudan miehet ovat ottaneet vaimoikseen vieraan jumalan palvelijoita ja näin loukanneet pyhää Jumalaansa, joka rakastaa omaa kansaansa.

12 Ottakoon Herra pois tuen ja turvan jokaiselta Jaakobin heimon mieheltä, joka sellaista tekee. Älköön hänelle jääkö ketään, joka voisi tuoda uhrin Herralle Sebaotille.

13 Te teette pahaa myös toisella tavalla. Siksi Herra ei katso enää suopeasti uhrilahjaanne eikä halua ottaa sitä vastaan teidän kädestänne, vaikka te peitätte hänen alttarinsa kyynelillä, itkette ja valitatte.

15 Ei Jumala luonut vain miestä eikä antanut elämää ja henkeä vain hänelle. Miten mies yksin voisi pyytää jälkeläisiä Jumalalta? Varokaa siis, ettei kukaan teistä hylkää vaimoaan, jonka on ottanut jo nuoruudessaan!

16 -- Minä vihaan eroa, sanoo Herra, Israelin Jumala. Joka eroaa, tekee yhtä väärin kuin se, joka tahraa kätensä veriteolla, sanoo Herra Sebaot. Varokaa hylkäämästä vaimoanne!

1 Hỡi các thầy tế lễ, bây giờ ta truyền lịnh nầy về các ngươi.

2 Nếu các ngươi chẳng nghe, và không để lòng dâng sự vinh hiển cho danh ta, thì, Đức Giê-hô-va vạn quân phán, ta sẽ giáng sự rủa sả trên các ngươi, và sẽ rủa sả những phước lành của các ngươi; và ta đã rủa sả rồi, vì các ngươi không để điều đó vào lòng.

3 Nầy, ta sẽ quở trách giống gieo của các ngươi, rải phân của những lễ các ngươi; các ngươi sẽ bị đem đi với phân ấy.

4 Các ngươi sẽ biết rằng ta đã truyền lịnh nầy cho các ngươi, để đã làm giao ước của ta với Lê-vi, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.

5 Giao ước của ta với Lê-vi vốn là sự sống và sự bình an mà ta đã ban cho nó, hầu cho nó kính sợ ta; thì nó đã kính sợ ta, và run rẩy trước danh ta.

6 Luật pháp của sự chơn thật đã ở trong miệng nó, trong môi miếng nó chẳng có một sự không công bình nào; nó đã bước đi với ta trong sự bình an và ngay thẳng, làm cho nhiều người xây bỏ khỏi sự gian ác.

7 Vì môi miếng của thầy tế lễ nên giữ sự thông biết, người ta tìm luật pháp trong miệng nó, vì nó là sứ giả của Đức Giê-hô-va vạn quân.

8 Nhưng, trái lại, các ngươi đã xây khỏi đường lối, làm cho nhiều người vấp ngã trong luật pháp, và đã làm sai giao ước của Lê-vi, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.

9 Vậy nên ta cũng đã làm cho các ngươi ra khinh bỉ hèn hạ trước mặt cả dân, vì các ngươi chẳng giữ đường lối ta, hay vị nể người ta trong luật pháp.

10 Hết thảy chúng ta chẳng phải là có chung một cha sao? Chẳng phải chỉ có một Đức Chúa Trời đã dựng nên chúng ta sao? Vậy sao ai nấy đãi anh em mình cách gian dối, phạm giao ước của tổ phụ chúng ta?

11 Giu-đa đã ăn ở cách lừa phỉnh, và đã phạm một sự gớm ghiếc trong Y-sơ-ra-ên và trong Giê-ru-sa-lem; vì Giu-đa đã làm uế sự thánh khiết của Đức Giê-hô-va, là sự Ngài ưa, mà cưới con gái của thần ngoại.

12 Phàm ai làm sự đó, hoặc kẻ thức, hoặc kẻ trả lời, hoặc kẻ dân của lễ cho Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Giê-hô-va sẽ trừ họ khỏi các trại của Gia-cốp.

13 Các ngươi lại còn làm sự nầy: các ngươi lấy nước mắt, khóc lóc, than thở mà che lấp bàn thờ Đức Giê-hô-va, nên nỗi Ngài không nhìn đến của lễ nữa, và không vui lòng nhận lấy vật dân bởi tay các ngươi.

14 Các ngươi lại nói rằng: Vì sao? Ay là vì Đức Giê-hô-va làm chứng giữa ngươi và vợ ngươi lấy lúc tuổi trẻ, mà ngươi đãi nó cách phỉnh dối, dầu rằng nó là bạn ngươi và là vợ giao ước của ngươi.

15 Vả, hơi sống của Đức Chúa Trời dầu có dư dật, chỉ làm nên một người mà thôi. Nhưng vì sao chỉ làm một người? Ay là vì tìm một dòng dõi thánh. Vậy các ngươi khá cẩn thận trong tâm thần mình; chớ đãi cách phỉnh dối với vợ mình lấy lúc tuổi trẻ.

16 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên có phán rằng ta ghét người nào bỏ vợ, và người nào lấy sự hung dữ che áo mình, Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy. Vậy hãy giữ trong tâm thần các ngươi, chớ đãi cách phỉnh dối.

17 Các ngươi đã làm phiền Đức Giê-hô-va bởi những lời nói mình; các ngươi lại nói rằng: Chúng tôi có làm phiền Ngài ở đâu? Ay là khi các ngươi nói: Ai làm điều dữ thì đẹp mắt Đức Giê-hô-va, và Ngài ưa thích những người như vậy; bằng chẳng vậy, thì nào Đức Chúa Trời của sự chánh trực ở đâu?