1 Älä meille, Herra, älä meille anna kunniaa, mutta anna kunnia omalle nimellesi, sinä hyvä ja uskollinen!

3 Meidän Jumalamme on taivaassa. Kaiken, mitä hän tahtoo, hän myös tekee.

4 Muiden kansojen jumalat ovat hopeaa ja kultaa, ihmiskätten työtä.

5 Niillä on suu, mutta ne eivät puhu, niillä on silmät, mutta ne eivät näe.

6 Niillä on korvat, mutta ne eivät kuule, niillä on nenä, mutta ne eivät haista.

7 Niillä on kädet, mutta ne eivät kosketa, niillä on jalat, mutta ne eivät kävele, niiden kurkusta ei kuulu mitään ääntä.

8 Niiden kaltaisiksi tulevat niiden tekijät, kaikki, jotka niihin turvaavat.

9 Sinä, Israel, luota Herraan! Hän on sinun turvasi ja kilpesi.

10 Aaronin suku, luota Herraan! Hän on sinun turvasi ja kilpesi.

11 Te, Herran palvelijat, luottakaa Herraan! Hän on teidän turvanne ja kilpenne.

12 Herra muistaa meitä ja siunaa meitä, hän siunaa Israelin sukua, hän siunaa Aaronin sukua.

13 Herra siunaa niitä, jotka häntä palvelevat, niin pieniä kuin suuria.

14 Lisätköön Herra kansaansa, teitä ja lapsianne, polvesta polveen.

15 Siunatkoon teitä Herra, hän, joka on tehnyt taivaan ja maan.

16 Taivas on Herran, maan hän on antanut ihmisille.

17 Eivät kuolleet ylistä Herraa, ei yksikään, joka on hiljaisuuteen laskeutunut.

18 Mutta me kiitämme Herraa nyt ja ikuisesti. Halleluja!

1 Hỡi Đức Giê-hô-va, nhơn vì sự nhơn từ và sự chơn thật Ngài, Sự vinh hiển chớ về chúng tôi, chớ về chúng tôi, Bèn là đáng về danh Ngài.

2 Vì sao các ngoại bang nói rằng: Đức Chúa Trời chúng nó ở đâu?

3 Đức Chúa Trời chúng tôi ở trên các từng trời; Phàm điều gì vừa ý Ngài, thì Ngài đã làm,

4 Hình tượng chúng nó bằng bạc bằng vàng, Là công việc tay người ta làm ra.

5 Hình tượng có miệng mà không nói; Có mắt mà chẳng thấy;

6 Có tai mà không nghe; Có lỗ mũi mà chẳng ngửi;

7 Có tay, nhưng không rờ rẫm; Có chơn, nào biết bước đi; Cuống họng nó chẳng ra tiếng nào.

8 Phàm kẻ nào làm hình tượng, và nhờ cậy nơi nó. Đều giống như nó.

9 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va; Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ.

10 Hỡi nhà A-rôn, hãy nhờ cậy nơi Đức Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ.

11 Hỡi các người kính sợ Đức Giê-hô-va, hãy nhờ cậy nơi Giê-hô-va: Ngài là sự tiếp trợ và cái khiên của họ.

12 Đức Giê-hô-va đã nhớ đến chúng tôi: Ngài sẽ ban phước, Ban phước cho nhà Y-sơ-ra-ên, Cũng sẽ ban phước cho nhà A-rôn.

13 Ngài sẽ ban phước cho những kẻ kính sợ Đức Giê-hô-va, Hoặc nhỏ hay lớn đều cũng vậy.

14 Nguyện Đức Giê-hô-va gia thêm phước Ngài Cho các ngươi và cho con cháu các ngươi.

15 Đức Giê-hô-va, là Đấng dựng nên trời đất, Đã ban phước cho các ngươi.

16 Các từng trời thuộc về Đức Giê-hô-va; Nhưng Ngài đã ban đất cho con cái loài người.

17 Kẻ chết hoặc kẻ xuống cõi nín lặng chẳng ngợi khen Đức Giê-hô-va.

18 Nhưng chúng tôi sẽ ngợi khen Đức Giê-hô-va, Từ bây giờ cho đến đời đời. Ha-lê-lu-gia!