1 Asafin psalmi. Jumala, Herra Jumala, on puhunut ja kutsunut koolle koko maanpiirin, idän ääriltä kaukaiseen länteen saakka.
2 Siionista, täydellisen kauniista, Jumala ilmestyy kirkkaudessaan.
3 Meidän Jumalamme tulee, hän ei enää vaikene. Tuhon tuli kulkee hänen edellään, myrsky raivoaa hänen ympärillään.
4 Hän kutsuu todistajikseen taivaan ja maan, hän vaatii kansansa tilille.
5 Kootkaa luokseni kaikki minun palvelijani, jotka ovat uhrein tehneet kanssani liiton.
6 Taivaat julistavat Jumalan vanhurskautta. Hän on oikeuden Jumala. (sela)
8 En nuhtele sinua uhriesi tähden, sillä polttouhrisi ovat aina edessäni.
9 En vaadi härkää talostasi, en vuohia tarhoistasi,
10 sillä minun ovat kaikki metsän eläimet, kaikki eläimet tuhansilla vuorilla.
11 Minun ovat kaikki vuorten linnut ja laaksojen moninaiset eläimet.
12 Jos minun olisi nälkä, en sanoisi sitä sinulle, sillä minun on koko maanpiiri, kaikki mitä on.
13 Söisinkö härkien lihaa, joisinko vuohien verta?
14 Anna Jumalalle uhriksi kiitos, täytä lupauksesi Korkeimmalle.
17 sinä, joka et ota vastaan ojennusta vaan heität käskyni selkäsi taakse?
18 Jos näet varkaan, otat hänet ystäväksi, pidät yhtä avionrikkojien kanssa.
19 Sinä annat suusi puhua pahaa, kielesi punoa petosta.
20 Sinä istut ja puhut pahaa veljestäsi, panettelet oman äitisi poikaa.
21 Pysyisinkö hiljaa, kun sinä teet noin? Sinä luulet, että minä olen sinun kaltaisesi. Mutta minä panen sinut vastaamaan teoistasi, asetan sinut tuomiolle.
22 Ymmärtäkää tämä, te jotka unohdatte Jumalan! Muuten minä raatelen teidät, eikä pelastajaa ole.
1 Đấng quyền năng, là Đức Chúa Trời, là Đức Giê-hô-va, đã phán, và gọi thiên hạ Từ hướng mặt trời mọc cho đến hướng mặt trời lặn.
2 Từ Si-ôn tốt đẹp toàn vẹn, Đức Chúa Trời đã sáng chói ra.
3 Đức Chúa Trời chúng tôi đến, không nín lặng đâu. Trước mặt Ngài có đám lửa cháy thiêu, Chung quanh Ngài một trận bão dữ dội.
4 Ngài kêu các từng trời trên cao, Và đất ở dưới đặng đoán xét dân sự Ngài:
5 Hãy nhóm lại cùng ta các người thánh ta, Là những người đã dùng của tế lễ lập giao ước cùng ta.
6 Các từng trời sẽ rao truyền sự công bình Ngài, Vì chính Đức Chúa Trời là quan xét.
7 Hỡi dân ta, hãy nghe, ta sẽ nói: Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe, ta sẽ làm chứng nghịch ngươi: Ta là Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời ngươi.
8 Ta sẽ chẳng trách ngươi vì cớ các của tế lễ ngươi, Cũng chẳng quở ngươi tại vì những của lễ thiêu hằng ở trước mặt ta.
9 Ta sẽ không bắt bò đực nơi nhà ngươi, Cũng chẳng lấy dê đực trong bầy ngươi;
10 Vì hết thảy thú rừng đều thuộc về ta, Các bầy súc vật tại trên ngàn núi cũng vậy.
11 Ta biết hết các chim của núi, Mọi vật hay động trong đồng ruộng thuộc về ta.
12 Nếu ta đói, ta chẳng nói cho ngươi hay; Vì thế gian và muôn vật ở trong, đều thuộc về ta.
13 Ta há ăn thịt bò đực, Hay là uống huyết dê đực sao!
14 Hãy dâng sự cảm tạ làm của lễ cho Đức Chúa Trời, Và trả sự hứa nguyện ngươi cho Đấng Chí cao;
15 Trong ngày gian truân hãy kêu cầu cùng ta: Ta sẽ giải cứu ngươi, và ngươi sẽ ngợi khen ta.
16 Nhưng Đức Chúa Trời phán cùng kẻ ác rằng: Nhơn sao ngươi thuật lại các luật lệ ta? Vì cớ gì miệng ngươi nói về sự giao ước ta?
17 Thật ngươi ghét sự sửa dạy, Bỏ sau lưng ngươi các lời phán ta.
18 Khi ngươi thấy kẻ ăn trộm, bèn ưng lòng hiệp với họ, Ngươi đã chia phần cùng kẻ ngoại tình.
19 Ngươi thả miệng mình nói xấu, Buông lưỡi mình thêu dệt sự dối gạt.
20 Ngươi ngồi nói chuyện hành anh em ngươi, Gièm chê con trai của mẹ ngươi.
21 Đó là điều ngươi đã làm, con ta nín lặng; Ngươi tưởng rằng ta thật y như ngươi; Nhưng ta sẽ trách phạt ngươi, trương các điều đó ra trước mặt ngươi.
22 Vậy, hỡi các người quên Đức Chúa Trời, khá suy xét điều đó, Kẻo ta xé nát ngươi, không ai giải cứu chăng.
23 Kẻ nào dâng sự cảm tạ làm của lễ, tôn vinh ta; Còn người nào đi theo đường ngay thẳng, Ta sẽ cho thấy sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.