1 Vua Đa-ri-út bèn truyền tra khảo trong tàng thơ viện là nơi chứa các bửu vật tại Ba-by-lôn.

2 Người ta tìm được trong đồn ở Ec-ba-tan tại tỉnh Mê-đi, một cuốn giấy trên đó có di tích như vầy:

3 Năm thứ nhứt đời Si-ru, vua Si-ru ra chiếu chỉ về đền của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem rằng: Khá xây cất lại đền của Đức Chúa Trời, đặng làm nơi dâng những của lễ; các nền nó phải lập cho vững bền. Đền thờ sẽ sáu mươi thước bề cao, và sáu mươi thước bề dài;

4 nó sẽ có ba hàng đá nguyên khối và một hàng đòn tay gỗ mới; còn tiền sở phí thì phải cấp phát từ trong nhà vua.

5 Lại, các khí dụng bằng vàng và bạc của nhà Đức Chúa Trời, mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lấy trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và đem qua Ba-by-lôn, thì phải trả lại, và đem về trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, khí dụng nầy trong chỗ nấy; ngươi phải để nó tại chỗ cũ trong nhà Đức Chúa Trời.

6 Vậy bây giờ, hỡi Tát-tê-nai, tổng đốc của xứ bên kia sông, Sê-ta-Bô-xê-nai, và các đồng liêu người ở A-phạt-sác bên kia sông, hãy dan ra;

7 khá để cho quan cai của người Giu-đa và những người trưởng lão của chúng xây cất lại đền thờ của Đức Chúa Trời tại nơi cũ nó.

8 Nầy ta ra lịnh, truyền các ngươi phải làm gì đối với các trưởng lão dân Giu-đa, đặng giúp việc cất lại cái đền của Đức Chúa Trời: Hãy lấy thuế khóa thâu ở bên kia sông, vội cấp phát các tiền chi phí cho những người đó, để công việc chẳng bị dứt chừng.

9 Phàm vật chi cần kíp, hoặc bò tơ đực, chiên đực hay là chiên con, để dùng làm của lễ thiêu dâng cho Đức Chúa Trời trên trời; hoặc lúa mì, muối, rượu, hay là dầu, theo lời của những thầy tế lễ ở tại Giê-ru-sa-lem, khá giao cho họ mỗi ngày, chớ thiếu,

10 hầu cho họ dâng những của lễ có mùi thơm cho Đức Chúa Trời trên trời, và cầu nguyện cho sanh mạng của vua và của các vương tử.

11 Ta cũng truyền lịnh rằng: Nếu ai cải chiếu chỉ nầy, thì khá rút một cây đòn tay trong nhà kẻ ấy, rồi treo nó tại đó. và vì cớ tội ấy, làm cho nhà nó thành ra một chỗ đổ rác.

12 Nguyện Đức Chúa Trời, là Đấng đã khiến danh Ngài ngự trong đền thờ ấy, hủy diệt vua nào, dân tộc nào dám giơ tay ra cải chiếu này đặng phá hủy đền thờ của Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem. Ta là Đa-ri-út ban chiếu chỉ nầy; khá làm theo nó cách cần mẫn!

13 Tát-tê-nai, quan tổng đốc của xứ phía bên nầy sông, Sê-ta-Bô-xê-nai và các đồng liêu họ, bèn cần mẫn tuân theo chiếu chỉ mà vua Đa-ri-út đã sai đến.

14 Ay vậy, các trưởng lão của dân Giu-đa bắt tay cất lại đền thờ, công việc được may mắn, y lời tiên tri của tiên tri A-ghê, và của Xa-cha-ri, con trai của Y-đô. Vậy, chúng làm xong công việc cất đền thờ, tùy theo mạng lịnh của Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và theo chiếu chỉ của Si-ru, Đa-ri-út, và At-ta-xét-xe, vua nước Phe-rơ-sơ.

15 Ngày thứ ba tháng A-đa, nhằm năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út, cái đền nầy được xây cất xong.

16 Dân Y-sơ-ra-ên, những thầy tế lễ, người Lê-vi, và những người khác đã bị bắt làm phu tù được về, đều giữ lễ khánh thành đền thờ của Đức Chúa Trời cách vui mừng.

17 Về lễ khánh thành đền thờ nầy, chúng dâng một trăm con bò đực, hai trăm con chiên đực, bốn trăm con chiên con, và tùy theo số các chi phái Y-sơ-ra-ên, chúng dâng mười hai con dê đực làm của lễ chuộc tội cho cả dân Y-sơ-ra-ên.

18 Chúng lập lên những thầy tế lễ và các người Lê-vi tùy theo ban thứ của họ, đặng phục sự Đức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, y như đã chép trong sách Môi-se.

19 Đoạn, ngày mười bốn tháng giêng, các người đã bị bắt làm phu tù được về, dự lễ Vượt qua.

20 Vì những thầy tế lễ và người Lê-vi, cả thảy đã dọn mình cho thanh sạch, không trừ ai; rồi chúng vì hết thảy người đã bị bắt làm phu tù được trở về, vì những thầy tế lễ, là anh em mình, và vì chính mình, mà giết con sinh dùng về lễ Vượt qua.

21 Những người Y-sơ-ra-ên đã bị bắt làm phu tù được về, bèn ăn lễ Vượt qua, luôn với những người đã tự chia rẽ ra sự ô uế của các dân tộc trong xứ đó, đến theo dân Y-sơ-ra-ên, đặng tìm kiếm Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.

22 Trong bảy ngày chúng giữ lễ bánh không men cách vui vẻ; vì Đức Giê-hô-va đã làm cho lòng chúng được khoái lạc, và có cảm động lòng vua A-si-ri đoái xem chúng, đặng giúp đỡ trong cuộc xây cất đền của Đức Chúa Trời, tức là Đức Chúa Trời ở Y-sơ-ra-ên

1 Kuningas Dareios käski tutkia asiaa Babylonian aarrekammioissa, joissa arkistoja säilytettiin.

3 Ensimmäisenä hallitusvuotenaan on kuningas Kyyros antanut Jerusalemin temppelistä tämän määräyksen: Temppeli rakennettakoon uudelleen paikaksi, jossa toimitetaan uhrit. Sen perustus säilytettäköön entisellä paikallaan. Temppelin korkeus olkoon kuusikymmentä kyynärää ja leveys kuusikymmentä kyynärää.

4 Sen seinissä olkoon hakattuja kiviä kolmena kerroksena ja sitten aina yksi kerros hirsiä. Kustannukset maksetaan kuninkaan varoista.

7 vaan antakaa temppelin rakennustöiden jatkua rauhassa. Juutalaisten käskynhaltijalla ja heidän vanhimmillaan on lupa rakentaa temppeli entiselle paikalleen.

8 Nyt määrään, miten teidän tulee tukea juutalaisten vanhimpia, kun he rakentavat tuota temppeliä. Niistä kuninkaan verotuloista, jotka saadaan Eufratin länsipuolisesta maakunnasta, on tarkoin ja viipymättä korvattava noille miehille kaikki kustannukset.

9 Jerusalemin papeille tulee päivittäin antaa, täsmälleen sen mukaan kuin he ilmoittavat, tarpeellinen määrä sonneja, pässejä ja karitsoita sekä vehnää, suolaa, viiniä ja öljyä,

10 jotta he voisivat uhrata uhrinsa taivaan Jumalalle ja rukoilla menestystä kuninkaalle ja hänen pojilleen.

11 Annan myös seuraavan käskyn: jos joku rikkoo tätä määräystä vastaan, hänen talostaan revittäköön palkki ja hänet lyötäköön siihen riippumaan, ja hänen talonsa hajotettakoon rauniokasaksi.

13 Tattenai, Eufratin länsipuolisen maakunnan käskynhaltija, ja Setar-Bosenai sekä heidän virkatoverinsa tekivät tarkalleen niin kuin kuningas Dareios oli käskenyt.

14 Juutalaisten vanhimmat jatkoivat rakentamista, ja työ onnistui hyvin, kun profeetat Haggai ja Sakarja, Iddon poika, rohkaisivat heitä puheillaan. Temppeli rakennettiin valmiiksi niin kuin Israelin Jumala oli käskenyt ja niin kuin Kyyros, Dareios ja Artakserkses, Persian kuninkaat, olivat määränneet.

15 Temppeli oli valmis adar-kuun kolmantena päivänä kuningas Dareioksen hallituskauden kuudentena vuotena.

16 Israelilaiset, papit ja leeviläiset ja muut pakkosiirtolaisuudesta palanneet, viettivät riemuiten temppelin vihkiäisjuhlaa.

17 Juhlassa he uhrasivat sata sonnia, kaksisataa pässiä, neljäsataa karitsaa sekä syntiuhriksi koko Israelin puolesta kaksitoista pukkia, yhden kutakin heimoa kohti.

18 Sitten he asettivat papit ryhmittäin ja leeviläiset osastoittain huolehtimaan Jerusalemissa jumalanpalveluksesta niin kuin Mooseksen kirjassa on määrätty. jälkeen

19 Ensimmäisen kuun neljäntenätoista päivänä viettivät pakkosiirtolaisuudesta palanneet pääsiäistä.

20 Papit ja leeviläiset olivat kaikki puhdistautuneet, niin että jokainen heistä oli puhdas. He teurastivat pääsiäislampaan kaikkien palanneiden puolesta, veljiensä, pappien, puolesta ja omasta puolestaan.

21 Pääsiäislammasta söivät pakkosiirtolaisuudesta palanneet israelilaiset ja kaikki, jotka olivat erottautuneet maassa asuvista muista kansoista ja hylänneet niiden saastaisuuden, koska he tahtoivat palvella Herraa, Israelin Jumalaa.

22 Riemuiten he viettivät happamattoman leivän juhlaa seitsemän päivän ajan. He iloitsivat, koska Herra oli tehnyt Assyrian kuninkaan heille suopeaksi, niin että kuningas auttoi heitä Israelin Jumalan temppelin rakentamisessa.