1 Đức Giê-hô-va ôi! kẻ cừu địch tôi đã thêm nhiều dường bao! Lắm kẻ dấy lên cùng tôi thay!

2 Biết bao kẻ nói về linh hồn tôi rằng: Nơi Đức Chúa Trời chẳng có sự cứu rỗi cho nó.

3 Nhưng, hỡi Đức Giê-hô-va, Ngài là cái khiên chở che tôi; Ngài là sự vinh hiển tôi, và là Đấng làm cho tôi ngước đầu lên.

4 Tôi lấy tiếng tôi mà kêu cầu Đức Giê-hô-va, Từ núi thánh Ngài đáp lời tôi.

5 Tôi nằm xuống mà ngủ; Tôi tỉnh thức, vì Đức Giê-hô-va nâng đỡ tôi.

6 Tôi sẽ không nao muôn người Vây tôi khắp bốn bên.

7 Hỡi Đức Giê-hô-va, hãy chổi dậy; Hỡi Đức Chúa Trời tôi, hãy cứu tôi! Vì Chúa đã vả má các kẻ thù nghịch tôi, Và bẻ gãy răng kẻ ác.

8 Sự cứu rỗi thuộc về Đức Giê-hô-va. Nguyện phước Ngài giáng trên dân sự Ngài!

1 Daavidin psalmi. Daavid pakenee poikaansa Absalomia. (H3:2)Herra, miten paljon minulla on ahdistajia! Monet nousevat minua vastaan,

3 (H3:4)Sinä, Herra, sinä olet minun kilpeni ja kunniani, sinä nostat minun pääni pystyyn.

4 (H3:5)Minä huudan avukseni Herraa, ja hän vastaa minulle pyhältä vuoreltaan. (sela)

5 (H3:6)Minä menen levolle ja nukahdan, sitten herään taas aamuun. Koko yön Herra suojelee minua.

6 (H3:7)En pelkää, vaikka tuhatpäinen joukko joka puolelta saartaisi minut.

7 (H3:8)Tule avukseni, Herra! Jumalani, pelasta minut! Sinä lyöt vihollisiani vasten suuta, sinä murskaat jumalattomien hampaat.

8 (H3:9)Yksin Herralta tulee apu, sinulta kansasi saa siunauksen. (sela)